Các ví dụ được thu thập cho Hướng dẫn hiện hành chỉ ra rằng DigComp đang được sử dụng trong 3 lĩnh vực chính nơi năng lực số đang ngày càng quan trọng.
Giáo dục và đào tạo. DigComp được sử dụng trong giáo dục ở tất cả các mức bắt đầu ở trường phổ thông, nơi nó đóng góp cho các thành tích giáo dục và phúc lợi của trẻ em & thanh thiếu niên.
Học tập suốt đời và hòa nhập. Năng lực số là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và thiếu năng lực số có thể làm trầm trọng thêm điều kiện của những người thiệt thòi rồi hoặc góp phần khiến cho họ bị loại trừ.
Việc làm. Năng lực số là cần thiết ngày nay cho sự đa dạng các hồ sơ công việc trong thế giới việc làm.
1 Giáo dục và đào tạo
DigComp được sử dụng ở tất cả các mức giáo dục và đào tạo, vì năng lực số cần bắt đầu được phát triển trong trường phổ thông, vì nó đóng góp cho các thành tích giáo dục và phúc lợi của trẻ em và thanh thiếu niên, sau đó là quan trọng cho việc làm.

T10. Lĩnh vực - Giáo dục / các hạng mục liên quan
Năng lực số được thừa nhận như là tài sản cơ bản cho cuộc sống nghề nghiệp trong tương lai của thanh niên và như một bộ xúc tác của các năng lực chủ chốt khác được phát triển trong trường phổ thông và cho việc học tập suốt đời (xem Phụ lục V của DigComp 1.0). Ngoài ra, việc để cho trẻ em và thanh thiếu niên nhúng đầy đủ vào thế giới số, năng lực số cũng là quan trọng cho chất lượng và an toàn cuộc sống xã hội và riêng tư của họ.
Phản ánh về nhận thức đang gia tăng này, những người làm chính sách giáo dục và đào tạo và các nhà cung cấp giáo dục và đào tạo khắp châu Âu đã khởi xướng các kinh nghiệm phát triển năng lực số trong khu vực giáo dục và đào tạo chính quy, nó thường bao gồm 3 dòng hành động chính sau:
Đào tạo và hỗ trợ cho các giảng viên để phát triển năng lực số của riêng họ. Các giảng viên được yêu cầu trở nên thông thạo số nhiều hơn, giống như hầu hết bất kỳ công nhân nào khác hoặc tất cả các công dân ngày nay, và như các hình mẫu về vai trò cho các sinh viên của họ. Nhưng họ đối mặt với thách thức bổ sung - nó kêu gọi sự hỗ trợ đặc biệt và là phổ biến đối với tất cả những ai với vai trò giáo dục (bao gồm cả các phụ huynh) - để đổi mới sáng tạo các tiếp cận và các công cụ họ sử dụng trong hoạt động sư phạm của họ (C1, C3 + T5 + T6, C4, C12, T15, T20). Khung mới của châu Âu về Năng lực Số của các Nhà giáo dục (DigCompEdu) được JRC xuất bản cuối năm 2017, đề cập chính xác tới năng lực số đặc thù của các nhà giáo dục, chúng là cần thiết để sử dụng hiệu quả các công nghệ số cho việc giảng dạy.
Sự phát triển các sáng kiến học tập cho sinh viên, vài trong số đó là dài hạn, như với sự giới thiệu năng lực số trong chương trình giảng dạy (C1 + T1, C26, T15), các năng lực số khác với đặc tính thí điểm, theo kinh nghiệm (C13, C9 + T8, C11 + T9, T19);
Đào tạo các nhà quản lý trường học, các nhân viên hành chính và khác, là cơ bản để tạo thuận lợi và hỗ trợ cho các quy trình khác và để khai thác nhiều cơ hội được công nghệ số chào để đổi mới tổ chức, truyền thông, .v.v. trong các trường phổ thông (C1, C4).
Vài kinh nghiệm toàn diện đề cập tới tất cả 3 cái đích đó, như trong ngữ cảnh giáo dục đại học ở Vương quốc Anh (C1) hoặc giáo dục bắt buộc ở Croatia (C4). Những nơi đó đã bắt đầu sử dụng DigComp để phát triển các khung năng lực được tùy chỉnh cho các tác nhân khu vực giáo dục, nó thông tin trong tất cả các bước tiếp sau: đánh giá năng lực, các hoạt động đào tạo và thừa nhận.
Các khung được tùy chỉnh cho các giảng viên dựa vào DigComp đã được xác định cả ở Nauy (T20) và Tây Ban Nha (C3), những nơi nó đã được sử dụng để phát triển hệ thống tích lũy dần cho việc đào tạo các giảng viên ban đầu và liên tục trong toàn bộ hệ thống trường phổ thông. Ở Pháp, khung được tùy chỉnh dựa vào DigComp thông tin cho đánh giá PIX và nền tảng học tập (C12), nó phục vụ cho cộng đồng giáo dục, nhưng cũng là mở cho toàn bộ cư dân.
DigComp cũng đã được sử dụng để thiết kế các công cụ hỗ trợ cho các giảng viên:
để quyết định các năng lực nào nhằm tới các sinh viên phụ thuộc vào mức của trường học (T15);
phát triển các hoạt động đánh giá xác thực về năng lực số (C11 + T9);
xác định và thừa nhận năng lực số được phát triển cho sự tham gia thị trường lao động với các sinh viên các trường nghề (C13);
thiết lập các hoạt động học tập và đánh giá với các học sinh là thanh thiếu niên về các năng lực quyền công dân số (T19) hoặc tập trung vào an toàn trên trực tuyến (C9 + T8).
2 Học tập suốt đời và hòa nhập
DigComp được sử dụng trong các kinh nghiệm học tập suốt đời và hòa nhập, vì năng lực số là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và thiếu nó có thể làm trầm trọng thêm điều kiện của những người thiệt thòi rồi hoặc góp phần khiến họ bị loại trừ.

T11. Lĩnh vực - Học tập suốt đời và hòa nhập / các hạng mục liên quan
Với việc các công nghệ số và các dịch vụ dựa vào nó luôn thay đổi, năng lực số phải liên tục được cập nhật, để tránh hoặc giảm thiểu các rủi ro bị loại trừ số. Loại trừ số trên thực tế ngày càng có liên quan tới sự thiếu năng lực, thay vì truy cập được tới công nghệ và các dịch vụ. Loại trừ số ngày nay có các rủi ro gia tăng loại trừ xã hội, bản thân nó thường có nguồn gốc từ loại trừ số. Những người bị cô lập, hoặc những người, vì vài lý do, thiếu sự thúc đẩy, khuyến khích và hỗ trợ ban đầu để học sử dụng công nghệ số và bắt kịp với chúng, có rủi ro bị loại trừ hơn nữa cả về mặt xã hội - vì truyền thông và các tương tác xã hội ngày càng phụ thuộc vào việc sử dụng số và các phương tiện số, vì nhiều tài nguyên và cơ hội học tập mới đòi hỏi mức sáng số tối thiểu phải có, truy cập được và khai thác được hiệu quả.
Nhờ việc gia tăng nhận thức về các yếu tố ở trên, những người làm chính sách từ các khu vực khác nhau, ở mức châu Âu, quốc gia và khu vực (bao gồm cả những người làm chính sách về giáo dục và đào tạo có trách nhiệm về giáo dục người lớn), các tổ chức khu vực thứ ba và các trường đại học đã khởi xướng các trải nghiệm:
Để huấn luyện huấn luyện viên, những người tạo thuận lợi số và các nhà giáo dục phi chính quy khác và những người tình nguyện được kêu gọi để phát triển năng lực số cho các loại người sử dụng đầu cuối khác nhau (C2, C5 + T7, C15, C7, C20, C23) hoặc để trợ giúp cho những người sử dụng đầu cuối đó với các phương tiện số, như các công nhân xã hội (C24) và các công nhân trẻ (C30). Trong các trải nghiệm đó, DigComp được sử dụng như là khung tham chiếu mà những người chuyên nghiệp và những người tình nguyện có thể sử dụng để đánh giá các năng lực số của những người sử dụng đầu cuối, và sau đó quyết định và thiết kế các hành động đào tạo và hỗ trợ khác. Nó cũng được sử dụng để xác định các hồ sơ số của những người chuyên nghiệp và những người tình nguyện đó và để đánh giá và phát triển các năng lực số của họ;
Để đánh giá và/hoặc phát triển năng lực số của những người lớn, từ các hành động rộng khắp (T2, C5, C12, T13, C28), tới các bản chào học tập số có trọng tâm nhiều hơn (T14);
Như một biến thể của điều nêu trên, để phát triển năng lực số và sáng số của người lớn, người thất nghiệp, người có giáo dục thấp và các nhóm khác gặp rủi ro bị loại trừ số (C15 + T10, T2, C14, C21);
Để phát triển năng lực số của thanh thiếu niên cho khả năng tuyển dụng việc làm (C10, C13, C16 + T11 + T12, C20, T16);
Để phát triển các giải pháp chứng thực cho các cư dân nói chung (C7, C22, T4, T17).
Trong các trải nghiệm từ các mục 2 tới 5 ở trên, DigComp được sử dụng để nâng cao nhận thức về năng lực số giữa những người làm chính sách và chính sách ở các mức khác nhau và các nhóm các sáng kiến đích nhất định; để thiết lập các mục tiêu phát triển năng lực phụ thuộc vào các ưu tiên đích, và để thiết kế nội dung các giải pháp tự đánh giá và các bản chào đào tạo (ánh xạ nội dung của chúng tới các năng lực và các mức thông thạo của DigComp). Trong các trường hợp khác nhau, đặc biệt theo mục 5 ở trên, các giải pháp thừa nhận và chứng nhận dựa vào DigComp được chào.
Trong một trường hợp đặc biệt (C25), UNESCO đã sử dụng DigComp theo quan điểm nghiên cứu dựa vào chính sách, để đánh giá những điều kiện tiên quyết về năng lực số tiềm ẩn được kỳ vọng từ những lợi ích của các dự án hòa nhập số khắp trên thế giới.
3 Việc làm
DigComp được sử dụng để nâng cấp kỹ năng cho mọi người và cải thiện khả năng được tuyển dụng vì năng lực số là cần thiết ngày nay cho sự đa dạng rộng rãi các hồ sơ công việc trong thế giới việc làm.

T12. Lĩnh vực - Việc làm / các hạng mục liên quan
Có sự thừa nhận ngày một gia tăng rằng năng lực số như được DigComp xác định, cũng được coi như là “các kỹ năng mềm” hoặc “các kỹ năng xuyên suốt” kỹ thuật số, ngày càng quan trọng cho công việc ngày nay. Điều này bổ sung thêm cho các kỹ năng CNTT-TT của các chuyên gia, điều có nhu cầu cao trong thị trường việc làm, và những người được yêu cầu để thực thi các chức năng và nhiệm vụ công việc đặc biệt (trên thực tế nó có thể được kết hợp trong đặc tả của DigComp, như trong T3). Trước tiên, năng lực số đã trở nên quan trọng để tìm kiếm thành công và có việc làm, cũng như để thiết lập và quản lý doanh nghiệp hoặc hoạt động chuyên nghiệp. Các khía cạnh làm ngân hàng, tiếp thị, tài chính và tất cả các dạng dịch vụ kinh doanh ngày nay dựa vào các giải pháp số. Năng lực số là quan trọng ở nơi làm việc để cộng tác với những người khác và thực thi nhiều chức năng công việc, chúng phụ thuộc vào quản lý thông tin và dữ liệu, truyền thông, .v.v. Năng lực số cũng tạo thuận lợi cho phát triển nghề nghiệp liên tục.
Nhờ nhận thức gia tăng đối với các yếu tố được nêu ở trên, nửa trong số các trải nghiệm trong Hướng dẫn này nhằm vào các thách thức và cơ hội số cho tuyển dụng việc làm và đã được khởi xướng bởi:
Các bên tham gia đóng góp từ các bên thứ 3 và với đổi mới sáng tạo công việc văn hóa (C6) và xã hội (C24), với sự hỗ trợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ - SME (C29), với việc thúc đẩy nhận thức về năng lực số rộng rãi hơn (T16, T18) và các dịch vụ chứng thực để cải thiện khả năng tuyển dụng việc làm (C7, C22);
Những người làm chính sách tham gia vào các chiến lược đổi mới sáng tạo số toàn diện khắp các khu vực kinh tế và xã hội (C2) và các tổ chức công hỗ trợ cập nhật kỹ năng của lực lượng lao động khu vực công, như các nhân viên dịch vụ việc làm (C8), cán bộ nói chung (C27, C28) và các nhà quản lý và quản trị trường học (C4). Các tổ chức công cũng chào các dịch vụ chứng thực cho tuyển dụng việc làm (C12, T3, T17);
Các nhà cung cấp tư nhân về đánh giá năng lực số và các dịch vụ đào tạo để hỗ trợ cho các sáng kiến cả của các khách hàng tư nhân và nhà nước (C17, C27).
Các bên tham gia đóng góp ở trên đã sử dụng DigComp để xác định các hồ sơ năng lực số và các yêu cầu đào tạo các hoạt động nghề nghiệp như: các chức năng của công nghiệp 4.0 (T3), các doanh nhân tự thân và các nhân viên văn phòng ảo (C19), các nhân viên xã hội (C24), các công nhân trẻ (C30), những người chuyên nghiệp cho các viện bảo tàng mới (C6), nhân viên các dịch vụ tuyển dụng việc làm (C8), các nhà quản lý và quản trị trường học (C4), các con đường sự nghiệp trong các vai trò thư ký/hành chính, quản lý dự án, tiếp thị và quảng cáo và các công việc giảng dạy (C10).
DigComp cũng đã được sử dụng để thiết kế các kiểm tra (tự) đánh giá năng lực số có liên quan tới các hồ sơ ở trên, nhưng cũng cho các bài kiểm tra chung hơn cho thanh niên (C16, T16), cho mọi người nói chung (C17) và các huấn luyện viên và các nhà giáo dục trong doanh nghiệp được kêu gọi để hỗ trợ cho sự chuyển đổi như vậy trong các SME (C29). Các kiểm tra đó thường được sử dụng để chỉ ra những người trả lời thấy các điểm mạnh và yếu của họ và hướng dẫn họ hướng tới các cơ hội học tập xa hơn vì các mục tiêu phát triển cá nhân và/hoặc việc làm mới.
Nhiều kinh nghiệm tập trung vào các hồ sơ số chuyên nghiệp mới cũng đã sử dụng DigComp để thiết kế chương trình giảng dạy để phát triển các năng lực đó như với: các nhân viên xã hội (C24), những người chuyên nghiệp của các viện bảo tàng mới (C6), các nhân viên dịch vụ trường học (C8), các cán bộ (C27), các nhà quản lý và quản trị trường học (C4), cho các con đường sự nghiệp trong các vai trò thư ký/hành chính, quản lý dự án, tiếp thị & quảng cáo và các công việc giảng dạy (C10).
Cuối cùng, vài kinh nghiệm hoàn thành vòng đời bằng việc ban hành các huy hiệu dựa vào DigComp (C4, C19), nó thừa nhận sự hoàn thành các khóa học và/hoặc các năng lực giành được. Các dịch vụ chứng thực dựa vào DigComp cũng được cung cấp (C7, C12, C22, T4, T17), để cải thiện giá trị của các năng lực có được vì mục đích việc làm.
Thừa nhận:
Dịch và trích dẫn từ: Kluzer S., Pujol Priego L. (2018). DigComp trong Hành động - Lấy cảm hứng, biến nó thành hiện thực (DigComp into Action: GET INSPIRED MAKE IT HAPPEN). S. Carretero, Y. Punie, R. Vuorikari, M. Cabrera, và O’Keefe, W. (Eds.). Báo cáo Khoa học cho Chính sách của JRC, EUR 29115 EN, Văn phòng Xuất bản của Liên minh châu Âu, Luxembourg, 2018. ISBN 978-92-79-79901-3, doi:10.2760/112945.
Tham chiếu: Khung Năng lực Số cho các Công dân (DigComp).
Xem thêm: Chuyển đổi số/Năng lực số
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...
Các bài trình chiếu trong năm 2024
Tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ cho giáo viên phổ thông, bao gồm cả giáo viên tiểu học và mầm non tới hết năm 2024
Các lớp tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ tới hết năm 2024
Các tài liệu dịch sang tiếng Việt tới hết năm 2024
‘Digcomp 2.2: Khung năng lực số cho công dân - với các ví dụ mới về kiến thức, kỹ năng và thái độ’, EC xuất bản năm 2022
Tổng hợp các bài của Nhóm các Nhà cấp vốn Nghiên cứu Mở (ORFG) đã được dịch sang tiếng Việt
Tổng hợp các bài của Liên minh S (cOAlition S) đã được dịch sang tiếng Việt
Năm Khoa học Mở & Chuyển đổi sang Khoa học Mở - Tổng hợp các bài liên quan
Hội nghị Đối tác Dữ liệu Mở châu Á năm 2021 do Việt Nam lần đầu tiên chủ trì
Các khung năng lực trong hành động
Phong trào Bình dân học vụ số: Mục tiêu, đối tượng, nội dung, nguồn lực, phương thức tổ chức thực hiện
Lễ công bố công khai Trung tâm Năng lực Kim cương châu Âu và dự án ALMASI
Khung năng lực AI cho giáo viên
Sư phạm Mở là gì (Trang của Đại học British Columbia, Canada)
Ngày Phần mềm Tự do, Ngày Phần cứng tự do, Ngày Tài liệu Tự do
‘Khung năng lực AI cho giáo viên’ - bản dịch sang tiếng Việt
Bạn cần biết những gì về các khung năng lực AI mới của UNESCO cho học sinh và giáo viên
Bàn về 'Lợi thế của doanh nghiệp Việt là dữ liệu Việt, bài toán Việt' - bài phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng ngày 21/08/2025
Các bài trình chiếu trong năm 2024
Triển khai Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO, cập nhật 15/10/2024
Các tài liệu dịch sang tiếng Việt tới hết năm 2024
‘Tài liệu quan điểm của KR21 về Giữ lại Quyền Tác giả: Giữ lại các quyền trong kết quả đầu ra nghiên cứu để cho phép phổ biến mở kiến thức’ - bản dịch sang tiếng Việt
‘LƯU Ý KHÁI NIỆM: Hội nghị Tài nguyên Giáo dục Mở Thế giới lần 3 năm 2024 của UNESCO “Tài sản Công cộng Kỹ thuật số: Giải pháp Mở và AI vì Quyền truy cập Toàn diện tới Tri thức”’ - bản dịch sang tiếng Việt
Tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ cho giáo viên phổ thông, bao gồm cả giáo viên tiểu học và mầm non tới hết năm 2024
‘KHUYẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG DẪN TRUY CẬP MỞ KIM CƯƠNG cho các cơ sở, nhà cấp vốn, nhà bảo trợ, nhà tài trợ, và nhà hoạch định chính sách’ - bản dịch sang tiếng Việt
DeepSeek đã gây ra sự hoảng loạn trên thị trường — nhưng một số người cho rằng việc bán tháo là quá mức
Dữ liệu để phân loại AI
“Chúng tôi không có hào nước”: Sự đổi mới đột phá của AI nguồn mở
Ứng dụng và phát triển Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) tại Việt Nam
Nhà khoa học AI hàng đầu của Meta cho biết thành công của DeepSeek cho thấy 'các mô hình nguồn mở đang vượt trội hơn các mô hình độc quyền'