Tài nguyên giáo dục mở (OER) đã quay trở lại Việt Nam?

Thứ sáu - 29/01/2016 07:14
Vào năm 2012, hội nghị thế giới về tài nguyên giáo dục mở - OER (Open Educational Resources) đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc - UNESCO (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization) tổ chức tại thủ đô Paris của nước Pháp. Cũng trong thời gian này, tại Việt Nam, 2 cuốn tài liệu chỉ dẫn về OER của UNESCO là: 'Chỉ dẫn cơ bản về các tài nguyên giáo dục mở' và 'Chỉ dẫn về tài nguyên giáo dục mở (OER) trong giáo dục đại học' do UNESCO và Khối Thịnh vượng chung về Học tập - COL (Commonwealth of Learning) xuất bản năm 2011 đã được dịch sang tiếng Việt. Đây là các chỉ dẫn cơ bản nhất về nhiều khái niệm và khía cạnh có liên quan tới OER từng có từ trước tới thời điểm đó cho nhiều đối tượng như: chính phủ, các cơ sở giáo dục, các giáo viên, các tổ chức sinh viên và các tổ chức đánh giá và công nhận chất lượng giáo dục.
Cũng vào thời điểm đó, loạt 8 bài báo giới thiệu về OER và hệ thống giấy phép Creative Commons (CC, thường đi với các OER) đã được đăng trên tạp chí Tin học và Đời sống.

 
ĐỊNH NGHĨA VỀ OER
UNESCO định nghĩa 'OER là các tư liệu dành cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu được lưu giữ trong bất kỳ phương tiện nào, dù là dạng số hay không, nằm trong miền công cộng hoặc được phát hành theo một giấy phép mở, cho phép bất kỳ ai cũng truy cập được không mất chi phí, sử dụng, tùy biến và phân phối lại với ít hoặc không có hạn chế cản trở nào'.
Còn Bộ Giáo dục Mỹ thì định nghĩa 'Các tài nguyên giáo dục được cấp phép mở là các tư liệu học tập có thể được sử dụng cho việc giảng dạy, học tập và đánh giá mà không có chi phí. Chúng có thể được sửa đổi và được phân phối lại mà không vi phạm các luật bản quyền'.
Điểm chung của 2 định nghĩa ở trên: OER là các tài nguyên giáo dục và được cấp phép mở. Chính từ việc cấp phép mở này với các giấy phép khác nhau, chúng trao các quyền tự do khác nhau cho người sử dụng, các học sinh, sinh viên, giáo viên và những người học tập suốt đời.

 
OER LÀ MỘT THÀNH PHẦN CỦA GIÁO DỤC MỞ
OER là thành phần quan trọng nhưng không phải là thành phần duy nhất của giáo dục mở, một tiếp cận giáo dục với mục đích cung cấp các cơ hội giáo dục sẵn sàng cho tất cả những người học. Việc tạo ra một hệ sinh thái giáo dục mở có liên quan tới việc tạo ra các tư liệu, dữ liệu học tập và các cơ hội giáo dục luôn sẵn sàng, không có các hạn chế được các luật bản quyền, các rào cản truy cập, hoặc các hệ thống sở hữu độc quyền đặt ra làm cho thiếu tính tương hợp và hạn chế sự trao đổi thông tin một cách tự do. Giáo dục mở gồm các thành phần sau:
  1. Tài nguyên giáo dục mở - OER
  2. Giáo dục cho tất cả mọi người: giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học tự do hoặc chi phí rất thấp sẵn sàng cho bất kỳ ai, thường trước hết được cấp vốn nhà nước.
  3. Truy cập mở tới các khóa học hoặc chương trình giáo dục, dù có hay không có tín chỉ.
  4. Sách giáo khoa mở: là tự do trên Internet cho người học sử dụng.
  5. Nghiên cứu mở: tài liệu nghiên cứu sẵn sàng trực tuyến, tải về tự do.
  6. Dữ liệu mở: dữ liệu được mở ra cho bất kỳ ai để sử dụng, sử dụng lại, và phân phối, chỉ tuân theo, nhiều nhất, yêu cầu ghi công và chia sẻ.
Ngoài OER ra, các sách giáo khoa mở, các tài liệu của nghiên cứu mở và các dữ liệu mở đều có một điểm chung là chúng đều mang giấy phép mở, thường là một trong số các giấy phép trong hệ thống giấy phép mở Creative Commons.

 
LỢI ÍCH CỦA OER
Ngày 29/10/2015, Bộ Giáo dục Mỹ đã phát động chiến dịch Đi với Mở (#GoOpen), khuyến khích các trường học ở Mỹ đi theo chiến dịch đó bằng các tài nguyên giáo dục được cấp phép mở (OER) và nhấn mạnh tới các lợi ích mà OER mang lại cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là:
  1. Gia tăng sự bình đẳng: Tất cả các sinh viên có sự truy cập tới các tư liệu học tập chất lượng cao với nội dung thích hợp và được cập nhật nhất vì các OER có thể được phân phối tự do cho bất kỳ ai.
  2. Tiết kiệm tiền - Việc chuyển sang các OER cho phép các trường học tái mục đích tiền đầu tư cho các sách giáo khoa in trên giấy vào các nhu cầu cấp bách khác. Việc chuyển một cuốn sách giáo khoa in theo truyền thống sang một cuốn sách giáo khoa mở có thể tiết kiệm được cho nhà trường nhiều triệu đồng.
  3. Nội dung luôn là phù hợp với chất lượng cao - các cuốn sách giáo khoa truyền thống bị lỗi thời vĩnh viễn ngay sau khi được in ra giấy, ép các trường tái đầu tư phần đáng kể ngân sách vào việc thay thế chúng. Các điều khoản của giấy phép sử dụng OER cho phép các nhà giáo dục duy trì chất lượng và sự phù hợp của các tư liệu mở thông qua các cập nhật liên tục.
  4. Tăng cường năng lực cho các giáo viên - Các OER nâng cao vai trò của các giáo viên như những nhà chuyên nghiệp sáng tạo bằng việc trao cho họ khả năng tùy biến thích nghi các tư liệu học tập để đáp ứng được các nhu cầu của các sinh viên của họ mà không vi phạm các luật bản quyền.

 

 
Theo tinh thần của sáng kiến #GoOpen, dự kiến vào mùa thu 2016 sẽ có loạt sách giáo khoa mở đầu tiên do 10 trường thí điểm ở Mỹ phát hành mà bất kỳ ai trên thế giới cũng có thể tải về để sử dụng.
Có thể thấy, các OER và sách giáo khoa mở, từ định nghĩa và các lợi ích của nó, cho phép người học ở bất kỳ đâu trên thế giới có thể sử dụng trực tiếp trên Internet và/hoặc tải về để sử dụng mà hầu như không mất chi phí và không vi phạm các luật bản quyền, điều có lẽ rất có lợi cho những người học, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển với nguồn vốn đầu tư vào giáo dục còn khiêm tốn như ở Việt Nam, đặc biệt vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay.
OER, cũng như bất kỳ vấn đề nào khác, không chỉ có những lợi ích, các điểm mạnh, mà cũng có cả các điểm yếu, cơ hội và thách thức (phân tích các điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức - SWOT).
TÍNH SẴN SÀNG CỦA OER TRÊN THẾ GIỚI
OER xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 01/1999, khi đại học Tübingen ở Đức đã xuất bản các video bài giảng lên Internet, nhưng nhiều người cho rằng phải tới năm 2002, khi Viện Công nghệ Massachusetts - MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã xuất bản 50 khóa học mở - OCW (OpenCourseWare) của Viện lên Internet, OER mới được cho là thực sự bắt đầu.
Cho tới nay, theo một vài số liệu thống kê năm 2015, có hơn 1 tỷ tư liệu giáo dục được cấp phép mở Creative Commons (OER), riêng chỉ trên site Flickr tới tháng 03/2015 đã có 306 triệu ảnh chụp mang giấy phép Creative Commons, và chúng vẫn đang gia tăng nhanh chóng từng ngày.
Bất kỳ ai cũng có thể truy cập tự do và miễn phí để sử dụng các OER và các sách giáo khoa mở chất lượng cao thông qua các công cụ tìm kiếm rất dễ dàng và thân thiện với người sử dụng. Một vài trong số vô số các site như vậy được liệt kê sau đây:
Không chỉ để truy cập và tải về tự do, với một vài trong số các site nêu trên, bạn còn có thể cùng tham gia tạo các OER và sách giáo khoa mở của chính bạn được đặt chỗ hosting trên các site đó.
Trong các site ở trên, site số 8 liệt kê cho bạn hàng trăm địa chỉ dẫn tới các OER và sách giáo khoa mở trên thế giới.
Đặc biệt nhất trong số các site ở trên là site số 9, MERLOT, site OER đa ngôn ngữ dành cho giáo dục đại học, trong đó có cả tiếng Việt. Được biết, chủ nhân của site MERLOT là chương trình của Hệ thống các trường Đại học Bang California (California State University System) của nước Mỹ cùng với các đối tác là các cơ sở giáo dục, các xã hội nghề nghiệp và giới công nghiệp.

 

 
CÁC DỰ ÁN OER TRÊN THẾ GIỚI
Dù mới có lịch sử 13 năm kể từ năm 2002 cho tới nay, nhiều dự án OER đã và đang được triển khai ở nhiều nước trên thế giới. Một vài trong số đó là:
  1. Phong trào OER phát triển nhất là ở các quốc gia phát triển với tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ như Mỹ, Anh và Canada. Nhiều dự án OER được khởi xướng từ các trường đại học của các nước trên, nổi bật như MIT, Carnegie Mellon, Michigan, California, Utah... của Mỹ, Đại học Mở (Open University) ở Vương quốc Anh hay Đại học British Columbia của Canada. Tài liệu 'Chỉ dẫn cơ bản về giáo dục mở' do UNESCO và COL xuất bản năm 2011 và tái bản năm 2015 liệt kê nhiều sáng kiến OER ở nhiều đại học trên khắp thế giới.
  2. Nhiều dự án OER cho các nước đang phát triển như: Dự án Nghiên cứu về OER vì sự phát triển - ROER4D (Research on Open Educational Resouces for Development) nghiên cứu OER dựa vào một số nước ở các châu Á (Ấn Độ, Malaysia và Indonesia), châu Phi và Mỹ Latin và các dự án OER có liên quan khác như chính sách thúc đẩy và ứng dụng OER - POERUP (Policies for OER Uptake), Trung tâm Nghiên cứu OER (OER Research Hub), Mạng Chính sách Mở (Open Policy Network), dự án được đề xuất từ Trung tâm Nghiên cứu và Đổi mới Giáo dục của OECD - CERI (OECD’S Centre for Educational Research and Innovation) và Dự án Lập bản đồ OER (OER Mapping Project), Dự án Phát triển Chính sách của UNESCO (UNESCO OER Policy Development Project), dự án nghiên cứu hiện trạng ở một cơ sở ở các nước bán cầu Nam Fundação Getulio Vargas (FGV) đang được Nhóm Khóa học Mở (Open Courseware Consortium) tiến hành.
  3. Một vài dự án bản địa hóa OER sang một vài ngôn ngữ khác tiếng Anh đã được triển khai, như TESS-India đối với các ngôn ngữ bản địa của Ấn Độ và TESSA đối với các quốc gia vùng Hạ - Saharan của châu Phi.
  4. Một vài dự án OER với các ngôn ngữ ít được sử dụng LUL (Less Used Languages) cũng đã và đang được triển khai tại một số quốc gia châu Âu như Federica của Ý, Periodica của Latvi, NDLA của Nauy, Scholaris của Balan, RURA của Pháp và Wikiwijs của Hà Lan...
OER Ở VIỆT NAM
Ngày 29/12/2015 vừa qua, tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã diễn ra hội thảo quốc tế 'Xây dựng nền tảng học liệu mở cho giáo dục đại học Việt Nam: đề xuất chính sách, tạo lập cộng đồng và phát triển giải pháp công nghệ' do 4 đơn vị đồng tổ chức là:
  1. Khoa Thông tin - Thư viện của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  2. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO), văn phòng đại diện tại Việt Nam.
  3. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Quốc gia về Công nghệ Mở, Bộ Khoa học và Công nghệ (RDOT).
  4. Câu lạc bộ Phần mềm Tự do Nguồn Mở Việt Nam (VFOSSA).
Tại hội thảo, những người tham dự đã được nghe trình bày từ đại diện các đơn vị tham gia trong 2 dự án có liên quan tới giáo dục mở mà Việt Nam đã tham gia, là dự án về các khóa học mở (OCW) và dự án về tài nguyên giáo dục mở (OER), cả 2 đều đã vào Việt Nam từ khá sớm, với OCW vào năm 2005 và OER vào năm 2008 (http://voer.edu.vn/).
Một điều khá ngạc nhiên, là hầu hết các thành viên của Hội Thư viện Việt Nam (nơi tập trung hầu hết các thư viện các trường đại học trong cả nước) và hầu hết các thành viên của VFOSSA (nơi tập trung nhiều công ty cung cấp các giải pháp/sản phẩm/dịch vụ dựa vào phần mềm tự do nguồn mở) đều chưa từng bao giờ biết tới 2 dự án này, dù theo lý thuyết, thì đáng lẽ ra 2 tổ chức này phải là những nhân tố tham gia tích cực nhất trong các dự án OER. Với VFOSSA, có lẽ lý do để giải thích cho điều này là vì nó mới chỉ được thành lập vào đầu năm 2012.
Sẽ thực sự đáng tiếc, nếu giáo dục Việt Nam, với khoảng 22 triệu người đang hàng ngày sống và làm việc hàng ngày lại không biết về xu thế tất yếu của thế giới như giáo dục mở và OER, điều được tác giả của 1 trong 2 bài trình bày về các dự án OCW và OER được nêu ở trên đã viết 'Cần nhận thức rằng việc xây dựng nguồn tài nguyên giáo dục mở hoặc các dự án OCW không phải là quy định có tính bắt buộc mà nó xuất phát từ mệnh lệnh của tương lai, từ xu hướng giáo dục mới ở các quốc gia phát triển'.
Phải chăng giáo dục Việt Nam không nghe thấy, cũng không nghe theo 'mệnh lệnh của tương lai'?

 
OER TRONG TƯƠNG LAI CỦA GIÁO DỤC VIỆT NAM SẼ THẾ NÀO?
Như đã được nêu ở trên, OER và sách giáo khoa mở đã bắt đầu được triển khai vào trong thực tế cuộc sống, đặc biệt là ở Mỹ và một số quốc gia phát triển, và bất kỳ ai trên trái đất này đều có thể sử dụng chúng hoặc trực tiếp trên trực tuyến, hoặc tải về để sử dụng mà không vi phạm luật bản quyền.
Cũng như trên đã chỉ ra, tồn tại rồi các site OER đa ngôn ngữ, nơi mà các OER tiếng nước ngoài (chủ yếu là tiếng Anh) đã được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới, bao gồm cả tiếng Việt.
Rất có thể, trong vòng 5-10 năm nữa, tất cả các sách giáo khoa hệ giáo dục phổ thông 12 lớp cũng như rất nhiều các khóa học ở mọi lĩnh vực khác nhau trong các trường cao đẳng và đại học sẽ đều là OER và sách giáo khoa mở được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau, bao gồm cả tiếng Việt. Với đặc tính của OER và các sách giáo khoa mở, chúng sẽ được cập nhật kiến thức mới liên tục và có thể sẽ trở thành các tài nguyên tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn thế giới cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu, ít nhất là cho giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học. Rất có thể lắm chứ.
Vì các lý do ở trên, câu hỏi được đặt ra cho giáo dục Việt Nam bây giờ là: Điều gì sẽ xảy ra với giáo dục Việt Nam trong vòng 5-10 năm nữa, nếu:
  1. Các học sinh - sinh viên Việt Nam, sống ở Việt Nam, tham gia học trong các khóa học mở, sách giáo khoa mở và OER của nước Mỹ và thế giới bằng tiếng Việt?
  2. Có bao nhiêu học sinh - sinh viên Việt Nam học theo cách như vậy?
  3. Các giáo viên và các cơ sở giáo dục mọi cấp học của Việt Nam sẽ như thế nào?

 
LỜI KẾT
Bản thân việc đưa giáo dục mở, OER và sách giáo khoa mở vào thực tế là rất không dễ với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Nhưng với Việt Nam có lẽ sẽ còn khó khăn hơn nhiều, vì một lý do khác, được nêu trong tài liệu 'Làm thế nào để tăng cường OER' của Liên minh Giáo dục Tự do (Free Education Alliance) của nước Đức, xuất bản năm 2015 như sau:
'Chỉ các định dạng (tiêu chuẩn) và các chương trình (phần mềm) mở mới có thể đảm bảo khả năng sử dụng và áp dụng OER không bị hạn chế và độc lập với các nền tảng ở mức kỹ thuật. Phần mềm có ý định là OER hoặc sẽ được phát triển và sử dụng để tạo ra và sử dụng OER phải được cấp phép thích đáng như là phần mềm tự do hoặc phần mềm nguồn mở'.
Có lẽ vì đoán trước được điều rất khó khăn này, bản tổng kết hội thảo quốc tế lần đầu tiên về OER ở Việt Nam ngày 29/12/2015 vừa qua đã có nội dung như sau trong phần kiến nghị:
'Với chủ trương cần nhanh chóng đổi mới giáo dục đại học toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cần sớm có cơ chế chính sách quốc gia về xây dựng tài nguyên giáo dục mở. Chính phủ cần ban hành văn bản pháp quy chỉ đạo, hướng dẫn triển khai xây dựng tài nguyên giáo dục mở cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Trên cơ sở đó, cho phép thành lập Ủy ban quốc gia về tài nguyên giáo dục mở. Để ra được văn bản và ủy ban này, rất cần sự vào cuộc của các bộ, ban/ngành liên quan như Ban Tuyên giáo Trung ương; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội; Bộ Khoa học & Công nghệ; Bộ Thông tin & Truyền thông; Bộ Giáo dục & Đào tạo; Bộ Tài chính; Bộ kế hoạch và đầu tư; Hội Thông tin Khoa học & công nghệ Việt Nam; Hội Thư viện Việt Nam…'

 
Trần Lê
PS: Bài đăng trên tạp chí Thế giới số, số tháng 01-02/2016, trang 62-64.

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập55
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm52
  • Hôm nay21,952
  • Tháng hiện tại662,181
  • Tổng lượt truy cập37,463,755
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây