Báochí từ các nhà nghiên cứu pháp lý gợi ý một sự sửađổi cho đám lộn xộn về bằng sáng chế phần mềm đãvà đang bị che dấu trong các luật lệ mọi lúc.
Newpaper f-rom legal researcher suggests a fix for the software patentmess has been lurking in the statute all this time
By Simon Phipps |InfoWorld, September 14, 2012
Bài được đưa lênInternet ngày: 14/09/2012
Lờingười dịch: Theo Luật về bằng sáng chế của Mỹ năm1952, thì chưa ai khi đó có thể biết nó sẽ được ápdụng thế nào cho các bằng sáng chế phần mềm sau này.Các luật sư đã sử dụng mẹo mực trong ngôn từ củamình để giành được các bằng sáng chế phần mềm với“các yêu sách theo chức năng” mà đáng lý ra không đượcxảy ra. “Kết quả của sự “đổi mới” này từnglà một sự nở rộ vô số các bằng sáng chế phần mềm,tiếp sau sự nổi lên của các công ty mà vai trò củachúng chỉ là để nặn bóp tiền từ các nhà đổi mớisáng tạo đích thực bằng việc sử dụng các đe dọacác vụ kiện bằng sáng chế. Tài liệu trích ướclượng của Bessen và Meurer rằng các quỉ lùn bằngsáng chế gây thiệt hại cho nền kinh tế hơn 500 tỷ USDcho tới nay. Lemley ước tính có hàng chục, có lẽhàng trăm ngàn, các bằng sáng chế sử dụng mẹo mựckhái niệm này trong lĩnh vực phần mềm để giành đượccác bằng sáng chế về các ý tưởng - hành động màchúng ta được dẫn tới tin tưởng là không thể xảyra”. Xem cácphần [01], [02], [03].
Để trả lời, Quốchội đã bị vận động hành lang nặng nề để thay đổiluật và một lần nữa cho phép “yêu sách theo chứcnăng”. Sau tất cả, đây là một công cụ mạnh và sinhlợi nhất cho việc kiểm soát sự cạnh tranh trong các thịtrường mới. Quốc hội đã giới thiệu Luật về Bằngsáng chế năm 1952, nó đã nói lại khả năng tạo ra nhữngyêu sách theo chức năng, nhưng đã ép buộc các điềukiện lên cách mà chúng có thể đi xa tới đâu được.Phần sống còn của qui định này là phần 112(f), nó nóilà tốt để viết một yêu sách bằng sáng chế mà mô tảmột sự sử dụng mới cho một thứ đang tồn tại trongcác điều khoản theo chức năng. Yêu sách đó phải xácđịnh một “phương tiện” được thiết lập - mộtđiều được sử dụng theo một cách thức mới - và cóthể mô tả một chức năng mới cho điều khoản đó.
Sự giới thiệu lạiyêu sách theo chức năng về các điều khoản đó đãkhông phải là một thảm họa mà ai đó có thể mong đợi.Luật mới đã làm việc được tốt, làm giảm đượcnhiều phạm vi các bằng sáng chế yêu sách quyền sở hữucủa một chức năng; khi chúng được nêu theo cách này,thì chúng chỉ có thể tác động tới chức năng nàotrong mối quan hệ với mục đích được mô tả trong bằngsáng chế đó. Theo Lemley, các luật sư về bằng sáng chếtrong nhiều lĩnh vực tránh dạng ngôn ngữ yêu sách“phương tiện cộng chức năng” và thay vào đó sửdụng những mẹo mực khác trong ngôn từ trong những mưuđồ của họ để đệ trình các bằng sáng chế rộnglớn hơn.
Nhưng vào năm 1952,không ai biết trước được vấn đề có thể xảy ra khingôn ngữ này đã được áp dụng đối với phần mềm.Cùng thời điểm đó, một luật sư thông minh về bằngsáng chế đã nhận thức được rằng nếu “một máytính” được sử dụng như là “phương tiện”, thì nócó thể thể hiện không có khó khăng cho mục đích củacác “chức năng” đi sau đó. Trong khi “một máy tính”nghe có vẻ đặc thù cho một thẩm phán, thì những hệquả của tính đầy đủ của Turing có nghĩa là bất kỳmáy tính nào cũng có thể được sử dụng như những“phương tiện”. Hệ quả là, phần 112(f) của Luật vềBằng sáng chế đã được đối xử như một cổng choviệc cấp bằng sáng chế chỉ về bất kỳ ý tưởng cókhả năng tưởng tượng nào trong phần mềm. Lemley nói:
Inresponse, Congress was lobbied heavily to change the law and onceagain allow "functional claiming." After all, it was alucrative and powerful tool for controlling competition in newmarkets. Congress introduced the Patent Act of 1952, which reinstatedthe ability to make functional claims, but imposed conditions on howfar they could go. The crucial part of the statute is section 112(f),which says it's OK to write a patent claim that describes a new usefor an existing thing in functional terms. The claim has to identifyan established "means" -- a thing to be used in a novel way-- and can describe a new function for that item.
Thereintroduction of functional claiming on these terms wasn't thedisaster one might expect. The new law worked well, greatly reducingthe scope of patents claiming ownership of a function; when they werephrased in this way, they could only affect that function inassociation with the object described in the patent. According toLemley, patent lawyers in many fields avoid this sort of"means-plus-function" claim language and instead use otherlinguistic tricks in their attempts to file broad patents.
Butin 1952, no one anticipated the problem that would result when thislanguage was applied to software. At some point, a clever patentattorney realized that if "a computer" was used as the"means," it would present no obstacle to the scope of the"functions" that followed it. While "a computer"sounds specific to a judge, the consequences of Turing completenessmean anycomputer could be used as the "means." As a consequence,section 112(f) of the Patent Act was treated as a gateway topatenting just about any idea imaginable in software. Lemley says:
Một người đượctrao bằng sáng chế yêu sách “các phương tiện cho việctính toán một giới hạn cảnh báo” đang viện tớinhững giới hạn của phần 112(f), và yêu sách đó sẽđược giới hạn phù hợp với thuật toán phần mềm đặcbiệt hoặc sự triển khai mà người được trao bằngsáng chế đã mô tả trong đặc tả. Nhưng nếu chínhngười được cấp bằng sáng chế đó yêu sách “mộtmáy tính được lập trình để tính toán một giới hạncảnh báo”, thì các tòa án ngày nay sẽ đọc khoản “máytính” như là cấu trúc đủ và sẽ hiểu các yêu sáchđề cập tới bất kỳ máy tính nào mà có thể tính toánđược một giới hạn cảnh báo, tuy nhiên sự tính toánđược lập trình.
Thựchiện qui định nghiêm túc
Kếtquả của sự “đổi mới” này từng là một sự nởrộ vô số các bằng sáng chế phần mềm, tiếp sau sựnổi lên của các công ty mà vai trò của chúng chỉ là đểnặn bóp tiền từ các nhà đổi mới sáng tạo đích thựcbằng việc sử dụng các đe dọa các vụ kiện bằng sángchế. Tài liệu trích ước lượng của Bessen và Meurerrằng các quỉ lùn bằng sáng chế gây thiệt hại cho nềnkinh tế hơn 500 tỷ USD cho tới nay. Lemley ước tính cóhàng chục, có lẽ hàng trăm ngàn, các bằng sáng chế sửdụng mẹo mực khái niệm này trong lĩnh vực phần mềmđể giành được các bằng sáng chế về các ý tưởng -hành động mà chúng ta được dẫn tới tin tưởng làkhông thể xảy ra.
Lemley khảo sát mộtdải các giải pháp mà những người khác đã đề xuấtcho vấn đề này, từ việc loại bỏ các bằng sáng chếphần mềm (ông tranh luận nó có thể là không thể vìthiếu một định nghĩa lành mạnh về “bằng sáng chếphần mềm”) cho việc yêu cầu xuất bản các thuậttoán. Nhưng Lemley khẳng định có một giải pháp đơngiản hơn nhiều. Ông quan sát thấy rằng trong các lĩnhvực khác của luật về bằng sáng chế, các tòa án đãyêu cầu rằng “điều đang tồn tại trước đó” minhchứng cho sự sử dụng cấu trúc “phương tiện cộngchức năng” để làm cho một yêu sách bằng sáng chế“phải nhiều hơn chỉ là sự trang hoàng cho cái cửasổ”.
Apatentee who claims "means for calculating an alarm limit"is invoking the limits of section 112(f), and the claim willaccordingly be limited to the particular software algorithm orimplementation the patentee described in the specification. But ifthe same patentee claims "a computer programmed to calculate analarm limit," courts today will read the term "computer"as sufficient structure and will understand the claims to cover anycomputer that can calculate an alarm limit, however the calculationis programmed.
Takingthe statute seriously
Theresult of this "innovation" was an enormous proliferationof software patents, followed by the eventual emergence of companieswhose only role is to extract money f-rom genuine innovators usingthreats of patent suits. The paper cites Bessen and Meurer's estimatethat patenttrolls have cost the economy over $500 billion so far. Lemleyestimates that tens, perhaps hundreds of thousands, of patents usethis conceptual trick in the field of software to gain patents onideas -- the very act we're led to believe is impossible.
Lemleysurveys a range of solutions others have proposed to this problem,f-rom abolishingsoftware patents (he contends it would be impossible because ofthe lack of a rigorous definition of "software patent") todemanding publication of algorithms. But Lemley asserts there is afar simpler solution. He observes that in other areas of patent law,the courts have required that the "preexisting thing"justifying the use of the "means-plus-function" structureto make a patent claim "must be more than mere window-dressing."
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...
Các bài trình chiếu trong năm 2024
Tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ cho giáo viên phổ thông, bao gồm cả giáo viên tiểu học và mầm non tới hết năm 2024
Các lớp tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ tới hết năm 2024
Các tài liệu dịch sang tiếng Việt tới hết năm 2024
‘Digcomp 2.2: Khung năng lực số cho công dân - với các ví dụ mới về kiến thức, kỹ năng và thái độ’, EC xuất bản năm 2022
Tổng hợp các bài của Nhóm các Nhà cấp vốn Nghiên cứu Mở (ORFG) đã được dịch sang tiếng Việt
Tổng hợp các bài của Liên minh S (cOAlition S) đã được dịch sang tiếng Việt
Năm Khoa học Mở & Chuyển đổi sang Khoa học Mở - Tổng hợp các bài liên quan
Hội nghị Đối tác Dữ liệu Mở châu Á năm 2021 do Việt Nam lần đầu tiên chủ trì
Các khung năng lực trong hành động
Phong trào Bình dân học vụ số: Mục tiêu, đối tượng, nội dung, nguồn lực, phương thức tổ chức thực hiện
Lễ công bố công khai Trung tâm Năng lực Kim cương châu Âu và dự án ALMASI
Khung năng lực AI cho giáo viên
Ngày Phần mềm Tự do, Ngày Phần cứng tự do, Ngày Tài liệu Tự do
‘Khung năng lực AI cho giáo viên’ - bản dịch sang tiếng Việt
Bạn cần biết những gì về các khung năng lực AI mới của UNESCO cho học sinh và giáo viên
Bàn về 'Lợi thế của doanh nghiệp Việt là dữ liệu Việt, bài toán Việt' - bài phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng ngày 21/08/2025
Các tài liệu dịch sang tiếng Việt tới hết năm 2024
Các bài trình chiếu trong năm 2024
‘Tài liệu quan điểm của KR21 về Giữ lại Quyền Tác giả: Giữ lại các quyền trong kết quả đầu ra nghiên cứu để cho phép phổ biến mở kiến thức’ - bản dịch sang tiếng Việt
‘KHUYẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG DẪN TRUY CẬP MỞ KIM CƯƠNG cho các cơ sở, nhà cấp vốn, nhà bảo trợ, nhà tài trợ, và nhà hoạch định chính sách’ - bản dịch sang tiếng Việt
DeepSeek đã gây ra sự hoảng loạn trên thị trường — nhưng một số người cho rằng việc bán tháo là quá mức
“Chúng tôi không có hào nước”: Sự đổi mới đột phá của AI nguồn mở
Tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ cho giáo viên phổ thông, bao gồm cả giáo viên tiểu học và mầm non tới hết năm 2024
Ứng dụng và phát triển Tài nguyên Giáo dục Mở (OER) tại Việt Nam
Dữ liệu để phân loại AI
Nhà khoa học AI hàng đầu của Meta cho biết thành công của DeepSeek cho thấy 'các mô hình nguồn mở đang vượt trội hơn các mô hình độc quyền'
50 công cụ AI tốt nhất cho năm 2025 (Đã thử và kiểm nghiệm)
Mark Zuckerberg: DeepSeek cho thấy vì sao nước Mỹ phải là ‘tiêu chuẩn nguồn mở toàn cầu’ của AI; không có lý do gì để suy nghĩ lại về việc chi tiêu
‘Tầm quan trọng của các kỹ năng tư duy phản biện và linh hoạt về năng lực AI của sinh viên TVET’ - bản dịch sang tiếng Việt