Trao đổi thư giữa nghị sỹ quốc hội Peru và tổng giám đốc của Microsoft Peru

Thứ hai - 29/03/2010 05:46

Lờingười dịch: Nhà nước cần chuẩn mở và phần mềm tựdo nguồn mở để đảm bảo cho những nguyên tắc cơ bảnvề tính tự do truy cập, tính vĩnh viễn của dữ liệuvà an ninh thông tin - dữ liệu của nhà nước. Một cánhân hay doanh nghiệp hoàn toàn có thể thỏa mãn để trởthành một “kẻnô lệ hạnh phúc”, nhưng Nhà nước thì không thể!!!.

5)Ngài tiếp tục nói rằng: 5. “Giả thiết sai lầm rằngPMNM là PMTD, rằng nó là, không có giá thành, và vì thếđi tới những kết luận không đúng về tiền tiết kiệmđược cho Nhà nước. Không có phân tích giá thành - lợiích để bảo lưu cho giả thiết này”.

Sựquan sát này là sai; về nguyên tắc, sự tự do và sựthiếu giá thành là những khái niệm trực giao nhau; cónhững phần mềm mà là sở hữu độc quyền vàphải trả tiền (ví dụ, MS Office), những phần mềm màlà sở hữu độc quyền và không mất tiền (MS InternetExplorer), những phần mềm là tự do và phải trả tiền(Red Hat, SuSE, …, các phát tán GNU/Linux), những phần mềmlà tự do và không phải trả tiền (Apache, OpenOffice.org,Mozilla), và cả những phần mềm mà có thể được cấpphép trong một dãy những sự kết hợp (MySQL).

Chắcchắn PMTD không nhất thiết là miễn phí. Và văn bản củadự luật này không nói rằng nó phải là như vậy, nhưngài sẽ lưu ý sau khi đọc nó. Những định nghĩa đượcđưa vào trong dự luật này nói rõ những gì phải đượccoi là PMTD, không ở điểm nào tham chiếu tới sự tự dokhông được lấy tiền. Dù khả năngtiết kiệm trong việc trả tiền cho các giấy phép củaPMSHĐQ được nhắc tới, thì các căn cứ của dự thảonày rõ ràng tham chiếu tới những đảm bảo cơ bản sẽđược gìn giữ và vì sự khuyến khích cho sự phát triểncông nghệ bản địa. Biết rằng một nhà nước dân chủphải hỗ trợ những nguyên tắc này, thì nó không có sựlựa chọn nào khác ngoài việc phải sử dụng phần mềmvới mã nguồn sẵn sàng một cách công khai, và để traođổi thông tin chỉ trong các định dạng chuẩn.

NếuNhà nước không sử dụng phần mềm với những đặctính này, thì nó sẽ làm suy yếu những nguyên tắc cơbản của nền cộng hòa. May thay, PMTD cũng ngụ ý tổngchi phí thấp hơn; tuy nhiên, ngay cả đưa ra giả thiếtnày (dễ dàng bị bác bỏ) rằng nó là đắt hơn so vớiPMSHĐQ, thì sự tồn tại đơn giản của một công cụPMTD có hiệu quả cho một chức năng công nghệ thông tincụ thể có thể bắt buộc Nhà nước phải sử dụng nó;không phải bởi mệnh lệnh của dự luật này, mà vìnhững nguyên tắc cơ bản mà chúng tôi tính đếm ngay từđầu, và nó nổi lên từ điều rất bản chất của Nhànước dân chủ hợp pháp.

6)Ngài tiếp tục: 6. “Không đúng để nghĩ rằng PMNM làtự do. Nghiên cứu của Gartner Group (một nhà nghiên cứuthị trường quan trọng trong thế giới công nghệ, nổitiếng thế giới) đã chỉ ra rằng giá thành của mua sắmphần mềm (hệ điều hành và các ứng dụng) chỉ là 8%tổng chi phí sở hữu mà các doanh nghiệp và tổ chứcphải đối mặt như một hệ quả của việc sử dụngcông nghệ một cách hợp lý và có năng suất. 92% khác làgiá thành của việc cài đặt, huấn luyện, hỗ trợ, duytrì, quản lý và thời gian không làm việc”.

Lýlẽ này nhắc lại mà nó đã được đưa ra trong đoạn 5và một phần mâu thuẫn với đoạn 3. Vì mục đích củasự khúc triết chúng tôi tham chiếu tới những bình luậnvề những đoạn này. Tuy nhiên, hãy để tôi chỉ ra rằngkết luận của ngài là sai về logic: ngay cả nếu theoGartner Group thì giá thành của phần mềm trung bình chỉlà 8% của tổng giá thành sử dụng, điều này không phủnhận bất kỳ cách gì sự tồn tại của phần mềm mànó là miễn phí, nghĩa là, với một giá thành cấp phépbằng 0.

Hơnnữa, trong đoạn này ngài chỉ ra đúng rằng các thànhphần dịch vụ và những mất mát do thời gian không làmviệc tạo thành phần lớn nhất của tổng giá thành củaviệc sử dụng phần mềm mà như ngài sẽ lưu ý, mâuthuẫn với tuyên bố của ngài về giá trị nhỏ bé củacác dịch vụ được gợi ý trong đoạn 3. Bây giờ việcsử dụng PMTD đóng góp một cách đáng kể để giảm giáthành việc duy trì chu kỳ sống. Sự giảm trong giá thànhcủa sự cài đặt, hỗ trợ, … có thể được lưu ýtrong vài lĩnh vực: trước hết, mô hình dịch vụ cạnhtranh của PMTD, sự hỗ trợ và duy trì cho nó có thể đượcthực hiện bằng hợp đồng một cách tự do đối vớimột dãy các nhà cung cấp cạnh tranh trên những nền tảngvề chất lượng và giá thành thấp (điều này là đúngcho sự cài đặt, khả dụng, và sự hỗ trợ, và trongmột phần lớn đối với sự duy trì). Thứ hai, nhờnhững đặc tính tái sản xuất của mô hình này, sự duytrì được thực hiện đối với một ứng dụng là dễdàng nhân bản được, mà không phát sinh ra những giáthành lớn (như vậy, không phải trả nhiều tiền hơn sovới một lần cho một thứ y hệt) vì những sửa đổi,nếu một khi mong muốn, có thể được kết hợp vàotrong kho tri thức chung. Thứ ba, giáthành khổng lồ được gây ra bởi phần mềm không hoạtđộng được (màn hình xanh chết chóc, mã độc nhưvirus, sâu bọ, và trojan, những ngoại lệ, những lỗi bảovệ chung và những vấn đề thường thấy khác) đượcgiảm xuống đáng kể bằng việc sử dụng những phầnmềm ổn định hơn. Và nổi tiếng là một trong nhữngđức tính tốt đáng ghi nhận của PMTD là tính ổn địnhcủa nó.

7)Ngài tiếp đó nói rằng: 7. “Một trong những lý lẽ ủnghộ đề xuất của ngài là sự rẻ tiền được cho làđúng của PMNM khi so sánh với phần mềm thương mại, màkhông xem xét tới khả năng của các mô hình cấp phéptheo số lượng lớn. Nhà nước có thể thực sự có lợitừ những mô hình này, như các quốc gia khác có”.

Tôiđã chỉ ra rằng những gì theo yêu cầu không phải làgiá thành của phần mềm mà là những nguyên tắc của sựtự do thông tin, tính có thể truy cập được, và an ninh.Những lý lẽ này đã được bao trùm một cách bao quátkhắp nơi trong những đoạn trước mà tôi tham chiếu chongài.

Mặtkhác, chắc chắn tồn tại những dạng cấp phép theo sốlượng lớn (dù đáng tiếc PMSHĐQ không làm thỏa mãnnhững nguyên tắc cơ bản). Nhưng vì ngài chỉ ra mộtcách đúng đắn trong đoạn ngay trên bức thư của ngài,chúng chỉ có thể làm giảm đi ảnh hưởng của mộtthành phần mà nó tạo ra không lớn hơn 8% tổng giá trị.

8)Ngài tiếp tục: 8. “Hơn nữa, tiếp cận được chọnbởi dự án của ngài (i) rõ ràng đắt hơn vì giá thànhcủa sự chuyển đổi là cao ; (ii) những rủi ro về tínhtương hợp giữa các hệ thống thông tin, cả bên trongNhà nước và giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, vìnhiều phát tán khác nhau của PMNM trên thị trường”.

Hãyđể chúng tôi phân tích tuyên bố của ngài trong 2 phần.Lý lẽ đầu của ngài, rằng sự chuyển đổi ngụ ý giáthành cao, là trong thực tế một lý lẽ có lợi cho dựluật này. Vì thời gian càng trôi đi nhiều hơn, thì sựchuyển đổi sang công nghệ khác sẽ trở nên càng khókhăn hơn; và cùng một lúc, những rủi ro về an ninh cóliên quan tới PMSHĐQ sẽ tiếp tục gia tăng. Theo cách này,việc sử dụng các hệ thống và các địnhdạng sở hữuđộc quyền sẽ làm cho Nhà nước phụ thuộcnhiều hơn bao giờ hết vào các nhà cung cấp rõ ràng nàođó. Ngược lại, một khi một chính sách về sử dụngPMTD được thiết lập (mà chắc chắn, sẽ bao hàm mộtsố giá thành) thì ngược lại sự chuyển đổi từ mộthệ thống này sang hệ thống khác sẽ trở nên rất đơngiản, vì tất cả các dữ liệu được lưu trữ trong cácđịnh dạng mở. Mặt khác, sự chuyển đổi sang một ngữcảnh của phần mềm mở bao hàm giá thành không lớn hơnso với sự chuyển đổi giữa 2 ngữ cảnh PMSHĐQ khácnhau, mà nó làm mất hiệu lực hoàn toàn cho lý lẽ củangài.

Lýlẽ thứ 2 tham chiếu tới “mất tính tương hợp giữacác hệ thống thông tin, cả bên trong Nhà nước và giữaNhà nước và khu vực tư nhân”. Tuyên bố này ngụ ýmột sự thiếu hụt nhất định về tri thức của cáchthức mà trong đó PMTD được xây dựng, mà nó không tốiđa hóa sự phụ thuộc của người sử dụng vào một nềntảng cụ thế nào đó, như thông thường xảy ra trongthực tế của PMSHĐQ.

Ngaycả khi có nhiều phát tán của PMTD, và hàng loạt cácchương trình mà có thể được sử dụng cho cùng mộtchức năng, thì tính tương hợp vẫn được đảm bảonhiều bởi việc sử dụng các định dạng chuẩn, nhưđược yêu cầu bởi dự luật này, bằng khả năng tạora các phần mềm tương hợp được nhờ vào tính sẵnsàng của mã nguồn

9)Ngài sau đó nói rằng: 9. “Trong hầu hết các trườnghợp, PMNM không đưa ra các mức dịch vụ thích hợp đểđạt được hiệu suất tốt hơn bởi những người sửdụng nó, cũng không đưa ra những đảm bảo từ các nhàsản xuất nổi tiếng. Những thứ này đã gây ra cho nhiềuthực thể nhà nước quay lại với những quyết địnhcủa họ về sử dụng PMNM; họ bây giờ sử dụng cácphần mềm thương mại để thế vào đó”.

Quansát này là không có cơ sở. Về sự đảm bảo, lý lẽcủa ngài bị bác theo trả lời ở đoạn 4. Về các dịchvụ hỗ trợ, có khả năng sử dụng PMTD mà không cầnchúng (cũng chỉ như là xảy ra với PMSHĐQ), nhưng bất kỳai cần chúng có thể có được sự hỗ trợ một cáchriêng rẽ, bất kể từ hãng bản địa hoặc các tậpđoàn đa quốc gia nào, một lần nữa chỉ như là trongtrường hợp của PMSHĐQ.

Mặtkhác, nó có thể đóng góp lớn lao cho phân tích củachúng tôi nếu ngài có thể thông tin cho chúng tôi vềnhững dự án PMTD được thiết lập trong các cơ quan nhànước mà đã bị loại bỏ có lợi cho PMSHĐQ. Chúng tôibiết về một số trường hợp tốt nơi mà điều ngượclại đã diễn ra, nhưng không biết bất kỳ nơi nào nhữnggì ngài mô tả đã diễn ra cả.

10)Ngài tiếp tục bằng việc quan sát rằng: 10. “Dự ánnày không khuyến khích tính sáng tạo trong nền côngnghiệp phần mềm của Peru, mà nó bán 40 triệu USD giátrị hàng hóa mỗi năm, 4 triệu USD trong số đó đượcxuất khẩu (1/10 về xếp hạng của xuất khẩu phi truyềnthống của Peru, hơn các hàng hóa thủ công mỹ nghệ) vàlà nguồn công ăn việc làm có kỹ năng cao. Với mộtluật khuyến khích sử dụng PMNM, các lập trình viên sẽđánh mất các quyền sở hữu trí tuệ của họ và nguồnquan trọng nhất của họ về tiền thù lao”.

Đủrõ ràng rằng không ai bị ép phải thương mại hóa mãnguồn của họ như là PMTD. Chỉ có một thứ phải tínhtới là việc nếu nó không phải là PMTD, thì nó khôngthể được bán cho khu vực nhà nước. Trong mọitrường hợp thì đây không phải là thị trường chínhcho nền công nghiệp phần mềm quốc gia. Chúng tôi đã điqua một số câu hỏi tham chiếu tới ảnh hưởng của dựluật về việc tạo ra công ăn việc làm mà có thể sẽvừa đủ tư cách về mặt kỹ thuật cao và vừa trongnhững điều kiện tốt hơn cho sự cạnh tranh ở trên,nên dường như là không cần thiết phải khăng khăng vềđiểm này.

Nhữnggì sau đó trong tuyên bố của ngài là không đúng. Mộtmặt, không có tác giả nào của PMTD đánh mất các quyềnsở hữu trí tuệ của anh ta, trừ phi anh ta chính xác mongmuốn đặt công việc của anh ta vào trong miền công cộng.Phong trào PMTD đã luôn tôn trọng sở hữu trí tuệ, vàđã tạo ra sự thừa nhận của công chúng về các tácgiả. Những cái tên như Ric-hard Stallman, Linus Torvalds, Guidovan Rossum, Larry Wall, Miguel de Icaza, Andrew Tridgell, Theo deRaadt, Andrea Arcangeli, Bruce Perens, Darren Reed, Alan Cox, EricRaymond, và nhiều cái tên khác được thừa nhận trêntoàn thế giới vì những đóng góp của họ cho sự pháttriển của phần mềm mà chúng được sử dụng ngày hômnay bởi hàng triệu người trên khắp thế giới, trong khicó nhiều tác giả hữu hình khác của những mẩu PMSHĐQvẫn còn là vô danh. Mặt khác, để nói rằng những phầnthưởng cho các quyền tác giả tạo nên nguồn thu nhậpchính của các lập trình viên người Peru trong mọi trườnghợp là sự phỏng đoán, đặc biệt vì không có bằngchứng nào cho kết quả này cả, không một trình bày nàovề cách mà việc sử dụng của PMTD bởi Nhà nước cóthể gây ảnh hưởng tới những sự trả tiền này.

11)Ngài đi tiếp để nói rằng: 11. “Vì PMNM có thể đượcphân phối một cách tự do, nó không thể kiếm bất kỳtiền nào cho các lập trình viên của nó bằng sự xuấtkhẩu. Theo cách này, nó làm yếu đi nhiều lần nỗ lựccủa việc bán phần mềm cho các quốc gia khác và làm cằncỗi sự tăng trưởng của nền công nghiệp bản địanày, mà Nhà nước nên khuyến khích”.

Tuyênbố này chỉ ra một lần nữa sự bỏ quên hoàn toàn cáccơ chế của thị trường cho PMTD. Nó cố gắng kêu rằngthị trường bán các quyền sử dụng không độc chiếm(bán các giấy phép) là thị trường duy nhất có thể cócho nền công nghiệp phần mềm, khi mà bản thân ngài đãchỉ ra vài đoạn ở trên rằng nó còn không phải là thịtrường quan trọng nhất. Những sự khích lệ mà dự luậtnày đưa ra cho sự tăng trưởng của một sự cung cấpnhững người chuyên nghiệp có đủ khả năng tốt hơn,cùng với sự gia tăng về kinh nghiệm khi làm việc trongmột phạm vi rộng với PMTD bên trong Nhà nước sẽ manglại cho những kỹ thuật viên người Peru, sẽ đặt họvào một vị thế cạnh tranh cao hơn để đưa ra nhữngdịch vụ của họ ở nước ngoài.

12)Ngài sau đó nói rằng: 12. “Trên diễn đàn, tầm quantrọng của việc sử dụng PMNM trong giáo dục đã đượcthảo luận, mà không có bình luận về sự thất bạihoàn toàn của sáng kiến này tại các quốc gia nhưMexico. Ở đó, cũng các quan chức Nhà nước mà ủng hộdự án này bây giờ nới PMNM đã không cung cấp một kinhnghiệm học tập cho trẻ em trong các trường học, nhữngmức độ tương xứng về huấn luyện đã không sẵn sàngkhắp toàn quốc, hỗ trợ không tương xứng cho nền tảngđược đề xuất, và phần mềm đã không được tíchhợp đủ tốt với các hệ thống máy tính đang tồn tạicủa các trường học”.

Trongthực tế thì Mexico đã thực hiện xong điều ngược lạivới Red Escolar (Dự án Mạng các trường học). Điềunày chính xác là dựa vào thực tế rằng những độnglực đằng sau dự án của Mexico đã sử dụng các giáthành của giấy phép như là lý do chính của họ, thay vìnhững lý do khác được chỉ định trong dự án của họ,mà chúng là cơ bản hơn nhiều. Vì sai lầm về khái niệmnày, và như là một kết quả của sự thiếu hỗ trợ cóhiệu quả từ SEP (Bộ của Nhà nước về Giáo dụcCông), sự thừa nhận đã được đưa ra rằng để PMTDăn sâu vào các trường học thì có lẽ là đủ để bỏđi ngân sách về phần mềm của họ và gửi cho họ mộtCD ROM với GNU/Linux thay vào đó. Tất nhiên điều này đãthất bại, và nó có thể không thể khác, chỉ như cácphòng thí nghiệm của các trường học thất bại khi họsử dụng các PMSHĐQ và không có ngân sách cho sự triểnkhai và duy trì. Điều đó là chính xác vì sao dựluật của chúng tôi là không bị hạn chế cho việc sửdụng bắt buộc PMTD, nhưng nhận thức được nhu cầu đểtạo ra một kế hoạch chuyển đổi có thể trụ vữngđược, trong đó Nhà nước cam kết cho sự chuyển dịchkỹ thuật theo một cách có trật tự để sau đó thụhưởng được những ưu điểm của PMTD.

13)Ngài kết thúc với một câu hỏi cường điệu hóa: 13.“Nếu PMNM đáp ứng được tất cả các yêu cầu củacác thực thể Nhà nước, thì vì sao một luật lại phảicần tới để áp dụng cho việc sử dụng nó? Liệu thịtrường có không tự do chọn ra được những sản phẩmnào đó để cung cấp nhiều hơn những lợi ích và giátrị chứ?”

Chúngtôi đồng ý rằng trong khu vực tư nhân về kinh tế, phảilà thị trường quyết định những sản phẩm nào đểsử dụng, và không có sự can thiệp nào của Nhà nướclà được phép ở đó cả. Tuy nhiên,trong trường hợp của khu vực nhà nước, thì việc nêulý do là không y như nhau: vì chúng tôi đã thiết lập cáccơ quan lưu trữ của Nhà nước, các chức danh, và truyềncác thông tin mà không thuộc về Nhà nước, mà đượcgiao phó cho nó bởi các công dân, những người không cógiải pháp thay thế theo qui định của pháp luật. Như làmột đối tác đối với yêu cầu pháp lý này, Nhà nướcphải nắm lấy những phương tiện tột cùng này để bảovệ tính toàn vẹn, tính bí mật, và tính có thể truy cậpđược của những thông tin này. Việc sử dụng PMSHĐQlàm dấy lên những nghi ngờ nghiêm trọng như là liệunhững yêu cầu này có thể được thỏa mãn hay không, sựthiếu hụt bằng chứng thuyết phục được theo ý này,và vì thế là không phù hợp cho việc sử dụng trong khuvực nhà nước.

Nhucầu cho một luật được dựa vào, trước hết, nhậnthức về các nguyên tắc cơ bản được liệt kê ở trêntrong lĩnh vực đặc biệt của phần mềm; thứ 2, vàothực tế rằng Nhà nước không là một thực thể thuầnnhất lý tưởng, mà được tạo ra từ nhiều cơ quan vớimột loạt mức độ về tự trị trong việc ra quyếtđịnh. Biết rằng không phù hợp để sử dụng PMSHĐQ,thực tế của việc thiết lập những qui định này trongluật sẽ ngăn chặn sự tự do làm theo ý cá nhân củabất kỳ nhân viên Nhà nước nào khỏi việc đặt ranhững rủi ro cho thông tin mà thuộc về các công dân. Vàtrên hết tất cả, vì nó tạo nên một sự khẳng địnhlại cho tới ngày hôm nay trong quan hệ đối với nhữngphương tiện quản lý và giao tiếp của thông tin đượcsử dụng ngày nay, được dựa vào nguyên lý của tính mởcủa nước cộng hòa đối với nhân dân.

Tuântheo nguyên tắc được chấp nhận một cách vạn năngnày, công dân có quyền biết tất cả các thông tin đượcgiữ bởi Nhà nước mà nằm ngoài những tuyên bố đượcthiết lập tốt về tính bí mật dựa trên luật. Bâygiờ, phần mềm làm việc với thông tin và bản thân nólà thông tin. Thông tin ở một dạng đặc biệt, có khảnăng được dịch bởi một máy để thực hiện các hànhđộng, nhưng thông tin sống còn tất cả là như nhau vìcông dân có quyền pháp lý để biết, ví dụ, lá phiếubầu của anh ta được tính như thế nào hoặc thuế củaanh ta được tính như thế nào. Và vì điều đó anh taphải có sự truy cập tự do tới mã nguồn và có khảnăng chứng minh cho sự thỏa mãn của anh ta những chươngtrình được sử dụng cho những tính toán hoặc ướctính bằng điện tử thuế của anh ta.

Quayvề các phần 12.

Nguồn:“Giới thiệu phần mềm tự do” do Viện Hàn lâm Côngnghệ Tự do phát hành vào tháng 09/2009.

Blogger:Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập102
  • Máy chủ tìm kiếm7
  • Khách viếng thăm95
  • Hôm nay26,203
  • Tháng hiện tại120,133
  • Tổng lượt truy cập36,178,726
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây