Bản quyền và giấy phép Phần mềm Tự do Nguồn mở

Chủ nhật - 10/01/2010 08:18

(NHQ – Dịch và giớithiệu – Đã đăng tải trên tạp chí Tin học & Đờisống số tháng 9-10 / 2009)

Những nguyên tắccơ bản

Các chương trìnhnguồn mở không phải là những chương trình không giấyphép. Ngược lại, chính giấy phép của chúng đã làmchúng thành nguồn mở. Chúng cũng không phải nằm trongmiền công cộng (public domain), nghĩa là không phải củariêng ai, hoặc chí ít được miễn trừ quyền di sản.

Khi một nhà pháttriển viết một chương trình, anh ta giữ quyền tác giả,hay bản quyền (copyright). Trong một số trường hợp, cóthể hãng làm việc của anh ta nắm giữ các quyền đó.Và cái bản quyền này có thể được bán, như một tàisản phi vật chất, từ hãng này qua hãng khác.

Người giữ bảnquyền được quyền tự do định ra chương trình của anhta có thể được sử dụng như

thế nào:

  • Anh ta có thể giữ riêng cho mình, cấm bất kỳ ai sử dụng nó.

  • Anh ta có thể bán những quyền của mình cho một người khác, người thật hay danh nghĩa.

  • Anh ta có thể dùng quyền tác giả qui định những điều kiện áp đặt cho việc sử dụng chương trình của mình. Anh ta viết ra các điều kiện này trong những điều khoản của giấy phép sử dụng.

Cần chú ý rằng,theo luật của Pháp, không phải dễ dàng từ bỏ quyềntác giả của mình và đặt chương trình vào miền côngcộng một cách không thể đảo ngược được.

Cũng cần giải thíchrõ ràng rằng không phải cứ truyền bá mã nguồn là làmcho một chương trình trở thành nguồn mở, mà phải làquyền, được ghi rõ trong giấy phép, tự do sử dụng,sửa đổi và phân phối lại chúng.

Vì thế cần thấmnhuần sâu sắc lô-gíc sau đây: ở cơ sở của nguồn mởcó giấy phép, và giấy phép chỉ tồn tại bắt nguồn từquyền tác giả.

Vì thế, tất cả cácphần mềm nguồn mở có một chủ sở hữu, chúng khôngphải là « chẳng thuộc về ai ». Trong một số trườnghợp, chủ sở hữu này có thể là một quĩ phi lợinhuận, hoặc cũng có thể là một hãng thương mại thôngthường. Cũng có thể là sở hữu của nhiều đồng tácgiả, đặc biệt trong trường hợp hệ quả của nhữngđóng góp về sau.

Người giữ bảnquyền được tự do ấn định các điều kiện của cácgiấy phép, anh ta cũng được quyền tự do thay đổichúng, tự do bố trí dàn xếp lại nội dung, thêm bớtcác ngoại lệ, hoặc truyền bá một số phần mềm nàytheo giấy phép này, một số khác theo một giấy phépkhác.

Ngược lại, ngườinhận chương trình thì không được tự do. Anh ta bị ràngbuộc bởi các điều khoản của giấy phép. Dĩ nhiên anhta đã không ký vào một hợp đồng nào, nhưng giấy phépđã được thông báo rõ ràng cho anh ta, và nó qui địnhrằng anh ta chỉ có quyền sử dụng chương trình dướinhững điều kiện này hay điều kiện nọ. Nếu anh ta từchối các điều kiện đó, anh ta không được quyền sửdụng chương trình.

Những điều khoảnsơ đẳng của các giấy phép

Tất cả các giấyphép nguồn mở đều có chung một số điều khoản tíchcực sau đây:

  • Xác định rõ ràng chủ sở hữu của bản quyền, bao gồm cả đến các bản sao và các bản dẫn xuất.

  • Sự bắt buộc bảo toàn ghi chú giấy phép như ban đầu, trên chương trình và các phiên bản dẫn xuất. Tất nhiên đây là một sự cần thiết kỹ thuật: mất công định nghĩa các điều khoản giấy phép làm gì nếu chúng bị dỡ bỏ ngay từ bản sao đầu tiên.

  • Sự bảo vệ tác giả đối với người sử dụng chương trình của anh ta vì những sai sót có thể và hậu quả do các sai sót đó: « chương trình này được cung cấp 'trong hiện trạng' (« as is ») ... ». Đây đúng là điều tối thiểu có thể được áp đặt: tác giả đã cho bạn tự do sử dụng thành quả của anh ta, vậy nên dù thế nào bạn cũng sẽ không truy cứu anh ta về những thiệt hại và lợi nhuận.

Cũng phải lưu ý rằngở một số nước, sự phân phối có thu tiền một chươngtrình kéo theo những quyền không thể từ chối. Nhưng nóichung, giấy phép không thể trái với luật pháp quốc gia.Vì thể giấy phép ghi rõ « Nếu bạn không thể phân phốichương trình sao cho thỏa mãn đồng thời các nghĩa vụđi kèm giấy phép và những nghĩa vụ áp dụng đượckhác, thì bạn nhất thiết không thể phân phối chươngtrình». Có nghĩa là, hoặc ta có thể đồng thời tôntrọng luật pháp quốc gia và giấy phép, hoặc là ta bịcấm phân phối chương trình dưới giấy phép này.

Định nghĩa phầnmềm tự do

Như đã đề cập ởtrên, phần mềm tự do được định nghĩa bằng sự tôntrọng bốn quyền tự do nền tảng

sau đây:

  • chạy chương trình,

  • nghiên cứu chương trình và thích ứng nó theo yêu cầu của bạn (điều này kéo theo tất yếu quyền truy cập mã nguồn),

  • phân phối lại chương trình để giúp đỡ người tiếp theo,

  • và sau cùng, cải tiến chương trình và phân phối lại những cải tiến này cho mọi người (điều này cũng kéo theo quyền tự do truy cập mã nguồn).

Như chúng ta đã đềcập, đích tối thượng là quyền tự do, quyền đượctruy cập mã nguồn chỉ là điều kiện cần để tôntrọng quyền tự do này.

Định nghĩa củamột giấy phép nguồn mở

Tổ chức Sáng kiếnNguồn mở (OSI, Open Source Initiative) đã ban bố một địnhnghĩa chính xác về nguồn mở (open source) nghĩa là gì,một định nghĩa ngày nay được thừa nhận một cách gầnnhư ở mọi nơi.

Có một định nghĩachính thức chính xác là rất quan trọng, một giấy phépkhông thể ít nhiều nguồn mở: nó là nguồn mở hoặc làkhông, mọi sự phải được rạch ròi.

Trên trang web củaOSI, opensource.org, cũng chỉ ra những giấy phép chủ yếunào tương thích với định nghĩa này. Lẽ đương nhiên,người ta phải tìm thấy ở đấy những giấy phép quenthuộc, bắt đầu bằng giấy phép GPL.

Định nghĩa gồm 10điểm, trong đó 3 điểm đầu tiên là chủ yếu:

  1. Tự do phân phối lại: giấy phép không thể cấm bất kỳ ai bán hoặc cho chương trình.

  2. Mã nguồn: giấy phép phải cho phép sự phân phối dưới dạng mã nguồn, và nếu mã nguồn không đi kèm chương trình, nó phải truy cập được một cách dễ dàng và miễn phí trên thực tế.

  3. Phiên bản dẫn xuất: giấy phép phải cho phép các thay đổi và các phiên bản dẫn xuất, và phải cho phép rằng những phiên bản này được phân phối dưới cùng các điều khoản giấy phép.

Hãy quay lại điểm 3này: giấy phép phải cho phép tối thiểu phân phối lạicác phiên bản dẫn xuất dưới cùng một giấy phép vàgiấy phép không cần phải bắt buộc điều này. Chúng tasẽ thấy sau đây rằng chính sự mập mờ này sẽ là cơsở để phân biệt họ giấy phép BSD với họ GNU.

Trong số các điềukhoản khác của định nghĩa này có những điều khoảnkhác nhau về sự không phân biệt đối xử(non-discrimination): giấy phép không thể loại trừ nhómNSD này, cũng như miền ứng dụng kia. Thí dụ, tác giảcủa chương trình không thể, với tư cách một ngườiủng hộ hòa bình, nói cụ thể rằng chương trình củaanh ta không thể được dùng để dẫn dắt tên lửa. Chỉcần anh ta thêm điều khoản này vào giấy phép thì nó sẽkhông còn là open source nữa.

Giấy phép GNU vàBSD

Có hai họ giấy phépnguồn mở lớn: họ BSD và họ GNU. Đôi khi người ta gọigiấy phép copyleft những giấy phép của họ thứ hai vànon copyleft những cái thuộc họ đầu. « Copyleft » tấtnhiên là một cách chơi chữ của từ « copyright », nhưngtuy vậy copyleft không phải là sự chối bỏ tác quyền.

Để không có sựnhầm lẫn, cần nói rõ rằng cho dù phong trào phần mềmtự do ưa chuộng các giấy phép copyleft hơn, bắt đầubằng GPL, nhưng không có sự tương ứng giữa phần mềmtự do và copyleft: các giấy phép BSD cũng là của phầnmềm tự do.

Họ BSD

Giấy phép BSD(Berkeley Software Distribution) cho phép mọi sử sử dụng củachương trình, mã nguồn của nó và các dẫn xuất. Đặcbiệt, mã nguồn dưới giấy phép BSD có thể được sửdụng tích hợp với những phần mềm dưới giấy phépkhông nguồn mở. Chúng ta đều biết rằng Microsoft đãlấy lại mã nguồn TCP-IP dưới giấy phép BSD đóng góivào trong Windows, và rằng MacOS X được xây dựng dựatrên FreeBSD.

Ràng buộc đặc trưngduy nhất là cấm lợi dụng danh nghĩa của tác giả, ởđây là Đại học Berkeley, để làm tiền hoặc tạo lợithế cho mình.

Vì thế đây là giấyphép phóng túng nhất, kéo theo ít ràng buộc nhất: cácchương trình dưới giấy phép BSD gần như nằm trong vùngcông cộng. Có lẽ đó cũng là giấy phép cổ nhất, vìphải lùi lại đến năm 1980. Nó không cấm thay đổi nộidung của giấy phép, đến mức người ta gặp vô số cácphiên bản dẫn xuất, có khi khác nhau chỉ vài từ. Đâylà một nhược điểm cho tính sáng sủa và dễ hiểu củagiấy phép.

Trong họ BSD, ngườita cũng tìm thấy giấy phép MIT, và giấy phép Apache. Giấyphép sau này có tầm quan trọng lớn vì nó đã được sửdụng bởi khoảng năm chục dự án mới tính riêng củaquĩ Apache. Người ta cũng có thể kể đến các giấy phépMozilla (MPL) và SUN (CDDL). Sự khác biệt của các giấyphép khác nhau này chỉ ở mức vài chi tiết.

Giấy phép GNU GPL

Giấy phép GNU GPL đượcđến 70 % chương trình nguồn mở sử dụng. Nhưng con sốphần trăm này không phải là điều quan trọng nhất vìcó một số phần mềm nguồn mở tiêu biểu lại dùngnhững giấy phép khác.

Giấy phép GNU GPL «GNU General Public License » đặc trưng chủ yếu bới điều2 của nó, điều nói về quyền sửa đổi chương trìnhvà phân phối lại các sửa đổi này, tức là tạo ra cácphiên bản dẫn xuất, với điều kiện là các dẫn xuấtnày vẫn phải nằm dưới cùng giấy phép GPL.

Đó là điều mà mộtsố người gọi là đặc trưng siêu vi của giấy phép: nóđược truyền cho các công trình dẫn xuất. Nhưng đúnghơn phải nói đó là sự đối ứng, hay là sự có đi cólại.

Đương nhiên do đótất cả vấn đề nằm ở chỗ biết chính xác thế nàolà một công trình dẫn xuất và nói phân phối nghĩa làgì? Mặc dù đã có rất nhiều bài báo nói về chủ đềnày, nhưng những vùng tối vẫn còn. Thậm chí một sốngười còn cho rằng việc giữ lại một vài nghi ngờcũng không phải là dở.

Chúng ta hãy cùng xemnhững gì đã rõ ràng.

« Công trình dẫnxuất » là gì?

Chắc chắn, nếu bạnlấy một đoạn mã nguồn của chương trình A, bạn sửađổi các dòng mã hoặc thêm một số dòng để tạo ramột chương trình B, đó là một công trình dẫn xuất.

Cũng chắc chắn nhưvậy, nếu bạn gọi các hàm của chương trình A từ mộtchương trình B, qua việc liên kết hai chương trình («link »), thì ở đây cũng thế, chương trình B là mộtcông trình dẫn xuất.

Sự liên kết giữacác chương trình có thể là tĩnh hoặc động, tức làliên kết chỉ diễn ra khi chạy. Đã có cuộc tranh cãi vềviệc liệu có thể xem một liên kết động là một côngtrình dẫn xuất hay không.

Thật vậy, trong cácmôi trường kĩ thuật hiện đại, tồn tại nhiều cáchkhác nhau để gọi các dịch vụ của một chương trìnhkhác lời gọi hàm. Sự gọi các dịch vụ của mộtchương trình A thông qua các giao thức chuẩn trên mạngkhông kéo theo B là một công trình dẫn xuất. Nếu quảvậy thì một trình duyệt web gửi một truy vấn đến mộtmáy chủ mà các chương trình CGI của nó dưới GPL, thìbản thân nó cũng bị buộc phải là GPL.

Trong thực tế, mọingười thường chấp nhận rằng một chương trình B đượccoi là dẫn xuất của chương trình A, nếu B không thểvận hành một cách hữu ích mà không có A, điều đó độclập với các phương thức kỹ thuật của sự liên kết.

Vậy một chươngtrình sử dụng thí dụ một cơ sở dữ liệu MySQL, dướigiấy phép GPL, sẽ được coi thế nào? Nếu chương trìnhnày, để gọi đến cơ sở dữ liệu, nó không sử dụngcác thư viện dưới giấy phép GPL, mà chỉ gọi các dịchvụ của MySQL thông qua các giao thức chuẩn, thì nó sẽkhông bị kéo theo phải là GPL. Nhưng nếu chương trìnhchỉ có thể chạy với một cơ sở dữ liệu MySQL, thìngười ta sẽ có thể coi nó là một công trình dẫn xuất,bất chấp mọi thứ. Cần ghi chú rằng tài liệu FAQ (trảlời các câu hỏi thường gặp) của MySQL về chủ đềgiấy phép đã bị phê phán vì đã để hiểu lầm rằngmọi dạng sử dụng vào mục đích thương mại cần phảiđược đặt dưới gấy phép thương mại. Điều đó làsai.

« Phân phối » làgì?

Ở đây cũng vậy, cómột số điều rõ ràng. Chắc chắn, nếu bạn thương mạihóa chương trình của bạn như là một phần mềm hoànchỉnh, điều đó gọi là phân phối.

Ngược lại, sửdụng và triển khai một chương trình trong nội bộ mộtcơ quan, đó không phải là phân phối. Điều đó cónghĩa là một hãng có thể xây dựng một công trình dẫnxuất, và sử dụng nó trong nội bộ trên tất cả cácmáy trạm và máy chủ mà hãng thấy cần, không bắt buộcphải truyền bá mã nguồn của công trình. Đó là mộtđiểm mấu chốt trong lĩnh vực kinh tế.

Một câu hỏi quantrọng khác là về quan hệ khách hàng – nhà cung cấptrong các nghề của tin học.

Khi một nhà cung cấpdịch vụ như Smile xây dựng một ứng dụng sử dụng cácthành phần dưới giấy phép GPL và chuyển giao ứng dụngnày cho khách hàng của mình, nhà cung cấp phải cung cấpđầy đủ toàn bộ tập hợp mã nguồn, cả những phầnmới thêm vào. Nghĩa vụ phân phối mã nguồn chỉ liênquan đến những người nhận chương trình , ở đây làkhách hàng. Không bắt buộc phải công bố trên một nơicông cộng.

Ngoài ra, khách hàngcó thể, hoặc giữ chương trình cho riêng mình (nghĩa làtrong nội bộ tổ chức), hoặc là phân phối nó, nhưngkhi đó bắt buộc phải dưới giấy phép GPL.

Chúng ta cũng cần lưuý rằng sử dụng công trình dẫn xuất dưới dạng dịchvụ trực tuyến (Software as a Service), kể cả dịch vụthương mại, không phải là phân phối. Điều Google đanglàm là một ví dụ. Về điểm này, xin xem phần đề cậpgiấy phép AGPL dưới đây.

Tư tưởng của GPL

Vượt lên trên cáctừ ngữ, tư tưởng của giấy phép GPL là, với tư cáchlà tác giả hay chủ sỏ hữu của một chương trình , tôicho bạn quyền sử dụng nó và sử dụng mã nguồn củanó, với điều kiện bạn cũng sẽ làm như vậy. Tóm lại,đó là có đi - có lại.

Giấy phép GPL có hệquả là nó chia thế giới thành hai « phe »: phe GPL vàphần còn lại của thế giới. Nếu bạn ở phía GPL, thìbạn có thể tiếp cận không hạn chế mọi di sản nguồnmở dưới GPL.

Còn nếu bạn ở phekia, tức là bạn không muốn phân phối mã nguồn của bạncho những người khác với cùng độ tự do mà bạn đãđược nhận, thì bạn không thể tận dụng kho tàng đó.

Vì thế, người cóthể gọi đó là nguyên tắc có đi-có lại, điều mànhững phê phán giấy phép này gọi nó là khía cạnh siêuvi.

Sự tương thíchcủa các giấy phép

Vấn đề tương thíchcủa các giấy phép là một vấn đề hàng đầu. Nếu mộtchương trình A đặt dưới giấy phép LA và một chươngtrình B dưới giấy phép LB, thì có thể xây dựng mộtchương trình C sủ dụng đồng thời A và B không? Chươngtrình C sẽ thừa kế các yêu cầu của LA và của LB, vànếu chẳng may có các mâu thuẫn giữa các yêu cầu này,nếu không thể tôn trọng cả hai đồng thời, thì sẽphải từ bỏ việc sử dụng A và B.

Vì vai trò thống lĩnhcủa giấy phép GPL trong nguồn mở, câu hỏi chính ở đâylà sự tương thích với giấy phép GPL. Một chương trìnhnguồn mở, nếu có một giấy phép không tương thích GPL,thì việc sử dụng nó sẽ bị hạn chế hơn.

Trong số các giấyphép tương thích, ta có thể kể đến các giấy phép BSD,MIT, hay là giấy phép Apache (tương thích GPL-v3). Trong sốcác giấy phép không tương thích, có thể kể đến SUNCDDL, Eclipse, Mozilla.

Hình vẽ sau đây đượclấy từ website gnu.org. Các mũi tên chỉ thị sự tươngthích của các giấy phép.

Cần lưu ý rằng mộtgiấy phép LA thuộc loại copyleft, và hầu như giống hệtGPL, nhưng lại mang một tên khác, sẽ không tương thíchGPL, vì một công trình dẫn xuất không thể đồng thờiGPL và LA . Đó là trường hợp, ví dụ, của giấy phép «tương hỗ » được Microsoft đưa ra gần đây, có tên gọilà MsRL.

LGPL

Giấy phép LGPL rấtgần với GPL, nhưng cho phép gọi các hàm từ một chươngtrình khác, không cần các chương trình sử dụng chươngtrình dưới LGPL này phải là nguồn mở. Giấy phép nàyvì thế đặc biệt thích hợp với các thư viện hàm, bảnchất là để cho các chương trình khác nhau gọi tới,không đặt ra các điều kiện quá mạnh cho các chươngtrình này.

Ban đầu LGPL cónghĩa là Library GPL, nhưng tên gọi sau đã được đổithành Lesser GPL (yếu hơn GPL), bởi vì Ric-hard Stallman muốnhạn chế tối đa sự tương ứng « thư viện (Library) =LGPL» và cho phép trù tính có cả các thư viện dướiGPL. Giấy phép LGPL là một sự thỏa hiệp giữa quyếttâm mạnh mẽ cổ động cho nguồn mở, và tránh sự thuhồi nó để phục vụ cho các phần mềm tư hữu, và mặtkhác ý muốn đem lại dịch vụ lớn nhất thông qua sựsử dụng rộng rãi nhất.

Cần lưu ý rằng đằngsau sự cho phép liên kết (linker), giấy phép LGPL còn đưavào một số điều kiện khá tế nhị trên chương trìnhđược liên kết. Vì thế, một số lập trình viên đãthích phân phối dưới giấy phép GPL kèm theo một phụlục special linking exception, cho phép gọi hàm.

Giấy phép GPL withspecial linking exception dễ đọc hơn và cho phép nhiều hơn,là giấy phép mà SUN đã chọn cho phần mềm JDK của mình.

GPL-v3

Phiên bản 3 của giấyphép GPL đã được hoàn thành trong năm 2007, và đang đượctriển khai dần. Nó nhằm cải thiện phiên bản v2, vàthích ứng nó vào một bối cảnh đã vận động, trêncác điểm sau đây:

  • Một sự định nghĩa pháp lý chặt chẽ hơn các từ ngữ, làm cho ít hơn các thuyết minh sai;

  • Cấm ngăn cản, nhờ các thiết bị vật lý, hoặc bằng cách không cung cấp thông tin cần thiết, sự thiết đặt của phần mềm được sửa đổi trên phần cứng đích của nó. Đó là điều đã được gọi là sự tivo hóa, bắt nguồn từ tên của hãng Tivo, nhà sản xuất máy ghi âm đã nhờ vào thủ thuật này.

  • Trường hợp đã có lệnh cấm, tại nhiều nước, vượt qua các cơ chế quản lý bản quyền số (DRM – Digital Right Management). Một công trình dẫn xuất một phần mềm GPL-v3 không thể đề cập sự cấm đoán này. Nghĩa là, không cấm viết một chương trình làm DRM sử dụng các thành phần GPL-v3, nhưng mà cấm sự cấm đoán vượt qua rào cản đó.

  • Một sự bảo vệ chống lại các yêu sách của các văn bằng sáng chế phần mềm: người phát tán mã nguồn của mình dưới giấy phép GPL-v3 cho tất cả các quyền sử dụng do giấy phép cho phép và cấm sự truy xét người sử dụng về chuyện văn bằng sáng chế phần mềm.

  • Khả năng cho phép thêm một số hạn chế riêng cho giấy phép, trong một số khả năng giới hạn, điều này thêm một chút co dãn trong các vấn đề tương thích các giấy phép.

AGPL (Affero)

Như chúng ta đã nóiở trên, không ai cấm một người lấy một chương trìnhdưới giấy phép GPL, xây dựng trên nền này một chươngtrình dẫn xuất, va sau đó sử dụng chương trình này chonhu cầu riêng của anh ta, bao gồm cả việc triển khaitrong nội bộ tổ chức của anh ta, và không nhất thiếtphải phát tán mã nguồn. Cũng như vậy, không hề cấmviệc đưa ra một dịch vụ truy cập được trên Internet,cũng được xây dựng bằng chương trình dẫn xuất này,không cần phải phát tán mã nguồn, vì sự sử dụng nàykhông phải là sự phân phối.

Tuy nhiên, với sựphát triển mạnh mẽ các chào hàng dịch vụ thuê máychủ, dạng Software as a Service (SaaS), kiểu sử dụng nàycó nguy cơ mở rộng. Nhưng hãy nghĩ kĩ mà xem, cho chươngtrình truy cập trực tiếp được từ những người sửdụng cuối qua Internet, rõ ràng là một cách cấm truy cậpmã nguồn, mà lại đang làm một sự khai thác thường làthương mại, có hơi hướng của một sự phân phối.

Để chống lại nguycơ trốn tránh trách nhiệm này, công ty Affero đã tạo ra,hợp tác cùng với FSF, giấy phép AGPL hoặc Affero GPL. Nógiống hệt GPL, nhưng được thêm một điều khoản rằngnếu chương trình ban đầu cho phép một truy cập từ mạngvà đã phát tán mã nguồn của nó qua mạng, thì cácchương trình dẫn xuất cũng phải làm như vậy.

Đây là một biệnphát nền tảng, và dường như nó có xu hướng sẽ đượcphổ biến rộng rãi trong tương lai. Sở hữu trí tuệvà văn bằng sáng chế

Thuật ngữ Sở hữutrí tuệ theo nghĩa chung qui chiếu đến tất cả các khiacạnh pháp lý liên quan đến sự sở hữu của các tàisản phi vật chất và do trí thức tạo ra.

Bản quyền trên mộtchương trình là một khái niệm khá rõ ràng. Ngay cả nếuchúng ta đã dẫn ra trước đây những sự thiếu chínhxác có thể trong khái niệm công trình dẫn xuất, thì cómột điều chắc chắn: nếu một nhà lập trình ngồitrước bàn phím và viết ra mã nguồn mà bộ óc anh tanghĩ ra, anh ta không đang vi phạm bất kỳ bản quyền nào.Chính anh ta, hoặc ông chủ lao động của anh ta, là nhữngngười giữ quyền tác giả của mã nguồn này.

Nói một cách khác:người ta biết khi nào người ta vi phạm một quyền tácgiả.

Ngược lại, các vănbằng sáng chế phần mềm có thể bị vi phạm mà khôngbiết. Một văn bằng sáng chế phần mềm có thể đềcập đến sự sử dụng trong một chương trình một thuậttoán hay một thủ pháp. Ở Hoa Kỳ, nơi được phép đăngký các văn bằng sáng chế phần mềm, các hãng lớn đăngký hàng ngàn văn bằng, trong đó rất nhiều chỉ đơnthuần là một thủ pháp thông thường, hoặc ai cũng đềubiết. Một số trong số đó có thể không được chấpthuận, nhưng người ta sẽ chỉ biết điều đó vào cuốicùng nếu như có sự tranh chấp, tức là sau một phiêntòa cực kỳ tốn kém.

Vì thế, chúng ta hiểurằng các văn bằng sáng chế phần mềm là một mối nguyhiểm lớn cho ngành công nghiệp tin học nói chung. Nó cótác dụng làm xơ cứng thị trường, để bảo trì độcquyền của các hãng phần mềm lớn, những kẻ duy nhấtcó thể chịu được các chi phí pháp lý theo kiểu Mỹ.Và giữa họ, dù điều gì xảy ra, cũng không tấn cônglẫn nhau.

Đôi khi người ra chorằng các phần mềm nguồn mở sẽ phải lo ngại nhiềuvề văn bằng sáng chế, đơn giản vì mã nguồn củachúng là công khai. Nếu chúng sử dụng những thuật toánđã đăng ký văn bằng sáng chế, thì điều đó sẽ dễdàng bị phát hiện. Ngược lại, nếu Microsoft hay Oraclesử dụng một mã nguồn vi phạm một văn bằng, hay thậmchí một bản quyền, thì sẽ cực kỳ khó khăn để chứngminh điều đó.

May mắn thay, các vănbằng sáng chế vẫn chưa có đất sống ở châu Âu, nhưngmối hiểm họa là lớn và những kẻ bảo vệ nó chưa hạvũ khí.



Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập74
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm71
  • Hôm nay22,735
  • Tháng hiện tại595,597
  • Tổng lượt truy cập37,397,171
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây