TÍNH TƯƠNG HỢP, MÔ HÌNH HÓA VÀ TIÊU CHUẨN HÓA QUI TRÌNH VÀ DỮ LIỆU TRONG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

Thứ ba - 18/09/2012 05:40

Cáctỉnh - bộ - ngành trong chính phủ đều có những dự ánxây dựng các hệ thống thông tin với các ứng dụng đặcthù với các qui trình nghiệp vụ cụ thể nào đó củachúng, trong số đó có nhiều ứng dụng và/hoặc các phầncủa ứng dụng có thể gần giống nhau hoặc giống nhauhoàn toàn cả về tổ chức, kỹ thuật và ngữ nghĩa đốivới các qui trình và/hoặc dữ liệu của chúng. Điềunày làm phát sinh nhu cầu về tính tương hợp, việc môhình hóa và tiêu chuẩn hóa cả qui trình cũng như dữliệu mà chúng ta sẽ đề cập tới một cách khái quáttrong bài viết này, đặc biệt khi xây dựng các ứng dụng- dịch vụ cho chính phủ điện tử (CPĐT).

A.TÍNH TƯƠNG HỢP

Dùlà xây dựng tài liệu khung tương hợp hay tài liệu vềchuẩn và kiến trúc thì một trong những mục tiêu hàngđầu của các tài liệu dạng đó là phải đảm bảotính tương hợp.

Địnhnghĩa tính tương hợp

Tínhtương hợp, từ quan điểm nghiệp vụ của kiến trúc củacác ứng dụng CPĐT,được hiểu như việc đảm bảo cho sự hợp tác giữamột loạt các ứng dụng CPĐT với nhau để trao đổithông tin có hiệu quả giữa các các cơ quan chính phủvới các công dân, doanh nghiệp và giữa các cơ quan chínhphủ với nhau. Còn từ quan điểm ứng dụng, tính tươnghợp được hiểu như là khả năng của 2 hoặc nhiều hơncác thành phần, phần mềm hoặc hệ thống công nghệthông tin và truyền thông (CNTT-TT) trao đổi được vớinhau một cách trong suốt và có ý nghĩa các thông tin - dữliệu và sử dụng được các thông tin - dữ liệu đượctrao đổi với nhau đó một cách có an ninh và hiệu quả.

Phânloại tính tương hợp: Tính tương hợp tổ chức, kỹthuật và ngữ nghĩa

Khinói về tính tương hợp, thông thường những cán bộ kỹthuật, các nhân viên lập trình phần mềm thường nghĩngay tới việc sử dụng một loạt các tiêu chuẩn kỹthuật, ví dụ như ngôn ngữ siêu văn bản mở rộng XML(Extensible Markup Language) để trao đổi các dữ liệu vàqui trình của các ứng dụng nghiệp vụ. Điều này làđúng nhưng không đủ. Đúng, vì XML, cùng với một sốtiêu chuẩn kỹ thuật khác, sẽ giúp giải quyết đượcvấn đề tương hợp về kỹ thuật. Không đủ, vì XML,không thể giải quyết được vấn đề tương hợp vềtổ chức và ngữ nghĩa.

  1. Tính tương hợp về tổ chức

Tính tương hợp về tổ chức trướchết xác định khi nào và vì sao các dữ liệu nhất địnhnào đó được trao đổi. Rõ ràng, từ quan điểm kỹthuật – công nghệ, chúng ta sẽ không thể có câu trảlời nào làm thỏa mãn được câu hỏi này. Điều này cónghĩa là trong phạm vi của tính tương hợp về tổ chức,những qui trình trao đổi các dữ liệu sẽ được phốihợp với các thông số pháp lý, theo các qui định củapháp luật.

Một ví dụ thường thấy, là tạinhiều quốc gia, các dữ liệu về tính riêng tư đượcpháp luật bảo vệ nghiêm ngặt, và chúng thường chỉđược phép trao đổi trong những trường hợp cụ thểnào đó, trong những cơ quan nhất định có thẩm quyềnnào đó. Việc tiết lộ các thông tin về tính riêng tưđược coi là một hành vi vi phạm pháp luật.

  1. Tính tương hợp về kỹ thuật

Tínhtương hợp về kỹ thuật tham chiếu thuần túy tới khảnăng để trao đổi thông tin. Tính tương hợp về kỹthuật bao gồm định nghĩa các cách thức trao đổi vàcác giao thức truyền tải dữ liệu. Với việc trao đổidữ liệu, thì tiêu chuẩn XML là bắt buộc phải sửdụng. Còn đối với sự truyền tải các dữ liệu, cácgiao thức thường được sử dụng như SOAP, HTTP, FTP, IP,SMTP... mà trong phạm vi của bài viết này, chúng ta sẽkhông đề cập tới chúng xa hơn.

  1. Tính tương hợp về ngữ nghĩa

Tínhtương hợp về ngữ nghĩa được đưa ra khi 2 hệ thốngtrao đổi các dữ liệu sao cho các dữ liệu được hiểutheo một cách thức cùng y hệt như nhau đối với cả 2đối tác giao tiếp và sự hiểu lầm được loại trừ.Điều này được áp dụng cho các mẫu biểu và các nộidung của dữ liệu được truyền.

Mộtví dụ cụ thể tính tương hợp về ngữ nghĩa mà chúngta có thể thường gặp khi xây dựng các cơ sở dữ liệucó liên quan tới họ và tên của người sử dụng, ví dụlà Lê Việt Nam, như được nêu trong bảng bên dưới.

STT

Trường trong bảng của cơ sở dữ liệu

Cách lưu trữ 1

Cách lưu trữ 2

Cách lữu trữ 3

Cách lưu trữ 4

1

Trường thứ 1

Lê Việt Nam

Lê Việt

2

Trường thứ 2

-

Nam

Việt Nam

Việt

3

Trường thứ 3

-

-

-

Nam

Bảng1: Ví dụ về các khả năng lưu trữ họ và tên ngườitrong các trường của cơ sở dữ liệu

Giả thiết chúng ta sẽ phải trao đổicác dữ liệu về họ và tên của cùng một người sửdụng nằm trong 2 cơ sở dữ liệu khác nhau của cùng mộtcơ quan, ví dụ như, cơ sở dữ liệu quản lý nhân sựvà cơ sở dữ liệu quản lý tiền lương của cùng mộtbộ trong Chính phủ. Giả thiết cơ sở dữ liệu quản lýnhân sự làm theo cách lưu trữ 1, còn cơ sở dữ liệuquản lý tiền lương làm theo một trong các cách lưu trữtừ 2-4. Dễ nhận thấy rằng, nếu không có những quiđịnh và/hoặc xử lý bổ sung, thì việc trao đổi dữliệu giữa các trường lưu trữ họ và tên của 2 cơ sởdữ liệu trên là không thể thực hiện được đối vớicác cán bộ dù là trong cùng một Bộ đó. Lý do khôngtrao đổi được nằm chính ở ngữ nghĩa của dữ liệu,chúng không đồng nhất với nhau và vì thế không thểtrao đổi qua lại giữa từng trường của 2 cơ sở dữliệu cần được trao đổi với nhau đó.

Điều không tương hợp về ngữ nghĩađối với cùng một cá nhân rất có thể sẽ xảy ra trầmtrọng hơn, nếu một cá nhân đó nằm trong nhiều cơ sởdữ liệu của các cơ quan khác nhau. Hãy tưởng tượng vềdữ liệu của cùng một cá nhân được lưu trữ trong cáccơ sở dữ liệu quốc gia khác nhau theo tinh thần củaQuyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/08/2010 về việc Quyếtđịnh Phê duyệt Chương trình Quốc gia về ứng dụngcông nghệ thông tin trong hoạt động các cơ quan nhà nướcgiai đoạn 2011-2015 như giữa (1) Cơ sở dữ liệu quốcgia về cán bộ, công chức, viên chức và (2) Cơ sở dữliệu quốc gia về dân cư, và chúng không thể trao đổiđược cho nhau. Khả năng không thể trao đổi được cácdữ liệu cho nhau về một cán bộ cũng có thể đượcthấy giữa các hệ thống khác nhau, như các hệ thốngcủa Chính phủ và của Đảng, ví dụ như các dữ liệucá nhân của các cán bộ ở 2 cơ sở dữ liệu cá nhânnêu trên với cơ sở dữ liệu quản lý Đảng viên.

Điều tương tự này cũng hoàn toàn cóthể xảy ra đối với các cơ sở dữ liệu quốc gia khácnhau trong Chính phủ như giữa (3) Cơ sở dữ liệu quốcgia kinh tế công nghiệp và thương mại với (4) Cơ sở dữliệu quốc gia về doanh nghiệp; Giữa (4) Cơ sở dữ liệuquốc gia về doanh nghiệp với (5) Cơ sở dữ liệu quốcgia về tài nguyên và môi trường và/hoặc với (6) Cơ sởdữ liệu quốc gia về các dự án đầu tư khi chúng sẽcó liên quan tới dữ liệu của cùng một doanh nghiệpnhưng nằm ở các cơ sở dữ liệu quốc gia khác nhau, vớicác cách thức sử dụng mã định danh và biểu diễn cáctên doanh nghiệp và họ và tên các chủ doanh nghiệp làkhác nhau và, về mặt ngữ nghĩa, các dữ liệu của cáccơ sở dữ liệu đó, rất có thể, sẽ không thể traođổi được các dữ liệu đó cho nhau. Chắc chắn, khi đisâu hơn, sẽ còn có nhiều vấn đề hơn nữa về sựtrùng lặp, chồng lấn các dữ liệu, không thể trao đổiđược với nhau từ sự không tương hợp về ngữ nghĩanày.

B.MÔ HÌNH HÓA VÀ TIÊU CHUẨN HÓA QUI TRÌNH

Kiếntrúc CPĐT thường có cấu tạo từ nhiều lớp hoặc quanđiểm, trong đó quan điểm nghiệp vụ là điểm khởiphát, là động lực để thúc đẩy tất cả những quanđiểm còn lại trong mô hình kiến trúc tổng thể. Bêncạnh những công việc khác, quan điểm nghiệp vụ cóliên quan trực tiếp tới công việc quản lý hành chính,tới cải cách hành chính. Tới lượt mình, một trongnhững hoạt động quan trọng trong cải cách hành chính,có liên quan tới sử dụng CNTT-TT làm công cụ để trợgiúp, là mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trìnhnghiệp vụ bằng việc sử dụng các công cụ mô hình hóaphù hợp.

Khôngcó việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trìnhnghiệp vụ thì việc sử dụng các công cụ CNTT-TT đểxây dựng các ứng dụng CPĐT sẽ gặp vô vàn khó khăn vàtrong nhiều trường hợp là không thể thực hiện đượcvì mỗi người có thể sẽ hiểu và diễn giải một quitrình nghiệp vụ cụ thể nào đó theo các cách thức khácnhau hoàn toàn. Lý tưởng mà nói, với một qui trìnhnghiệp vụ của một ngành cụ thể nào đó được môhình hóa và tiêu chuẩn hóa bằng các công cụ tiêu chuẩnthì dù bạn có là người ngoài ngành đó, thậm chí làngười của một quốc gia khác, cũng sẽ hiểu được quitrình nghiệp vụ đó y hệt như bất kỳ ai khác hiểubiết tường tận về qui trình nghiệp vụ của ngành đó.Nói ngắn gọn, việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa mộtqui trình nghiệp vụ làm cho qui trình nghiệp vụ trở nênrõ ràng, minh bạch và được hiểu y hệt như nhau. Nhữngqui trình nghiệp vụ như vậy sẽ là cơ sở nhất quáncho việc xây dựng các ứng dụng nghiệp vụ đặc thù sửdụng trong CPĐT. Ví dụ được nêu trong phần “Ví dụvề một ứng dụng – dịch vụ trực tuyến với vàithành phần cơ bản” của bài “Giớithiệu kiến trúc phần mềm tham chiếu trong CPĐT”đăng trên tạp chí Tin học & Đời sống số tháng04/2012 là được xây dựng trên cơ sở của một qui trìnhnghiệp vụ đã được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa tớitừng bước, dựa vào tổng cộng 20 bước đó các lậptrình viên phần mềm đã tạo ra một ứng dụng – dịchvụ đặc thù sử dụng trong môi trường CPĐT triển khaitốt được trong thực tế.

Côngviệc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa qui trình nghiệp vụlà một lĩnh vực rộng lớn, có liên quan tới nhiều vấnđề về quản lý trong hành chính, và về bản chất, làdo những người có chuyên môn về hành chính thực hiệnchứ không phải là công việc của những người cóchuyên môn về CNTT-TT. Tuy nhiên, CNTT-TT có thể cung cấpnhững công cụ và các thông tin liên quan để những ngườicó chuyên môn về hành chính có khả năng tiêu chuẩn hóacác qui trình nghiệp vụ sao cho những người có chuyênmôn về CNTT-TT sau đó có thể dựa vào những qui trình đãđược mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa đó để xây dựngcác ứng dụng - dịch vụ CPĐT một cách có an ninh vàhiệu quả. Việc trao đổi và phổ biến các thông tin trợgiúp này có thể được thực hiện bằng nhiều cáchthức, trong đó phổ biến nhất hiện nay là thông qua cácwebsite và diễn đàn chuyên môn.

Cầnthiết và cấp bách phải có một bộ phận chuyên làmcông việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trìnhnghiệp vụ bằng việc sử dụng các công cụ chuyên dụng,được tiêu chuẩn hóa cho công việc mô hình hóa qui trìnhnghiệp vụ như ngôn ngữ Mô hìnhhóa Thống nhất UML (UnifiedModeling Language) đểtrợ giúp đặc lực trong quá trình xây dựng các ứngdụng – dịch vụ CPĐT.

Càngmuốn sử dụng mô hình hướng dịch vụ (SOA) có hiệuquả bao nhiêu, thì càng phải mất nhiều công sức hơncho việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa qui trình (và dữliệu, mà sẽ được đề cập sau trong bài viết này) bấynhiêu, vì bản thân việc mô hình hóa và tiêuchuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ đồng nghĩa với việcđể các hoạt động nghiệp vụ được thực hiện mộtcách lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ được xây dựngthành các dịch vụ cung cấp cho người sử dụng có hiệuquả nhất.

Ngàynay, để triển khai có hiệu quả mô hình hướng dịch vụSOA hay sau này là mô hình điện toán đám mây, các quốcgia tiên tiến trước hết hướng tới việc quảnlý các qui trình CNTT có hiệu quả và tin cậy, dựa vào“Thư viện Hạ tầng CNTT”, gọi tắt là ITIL (InformationTechnology Infrastructure Library),như một thư viện các qui trình đưa ra những thực tiễntốt nhất, bây giờ đã trở thành như những tiêu chuẩndefacto được chấp nhận toàn cầu. Hy vọng các nội dungcủa ITIL sẽ được đề cập tới trong một bài khác củaloạt bài này.

C.MÔ HÌNH HÓA VÀ TIÊU CHUẨN HÓA DỮ LIỆU

Trongkiến trúc CPĐT, bên cạnh quan điểm nghiệp vụ luôn cóquan điểm thông tin. Cũng tương tự như với quan điểmnghiệp vụ, tính tương hợp giữa các ứng dụng – dịchvụ và/hoặc hệ thống CPĐT được cải thiện bằng việcmô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các dữ liệu thông quaviệc sử dụng các công cụ được tiêu chuẩn hóa vàcác tiêu chuẩn được các cơ quan tiêu chuẩn hóa quốctế thừa nhận.

Ởtrên, chúng ta vừa nhắc tới tính cấp thiết phải cómột bộ phận chuyên làm công tác mô hình hóa và tiêuchuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ trợ giúp cho việc xâydựng các ứng dụng – dịch vụ CPĐT. Chúng ta cũng cầncó bộ phận có trách nhiệm trong việc tiến hành côngviệc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các dữ liệu. Đâylà nơi có trách nhiệm đưa ra các thông tin về cách thứcchuẩn bị và thực hiện việc mô hình hóa và tiêu chuẩnhóa dữ liệu, về việc phân tích và tối ưu hóa các môhình dữ liệu hiện đang tồn tại và quan trọng hơn, đưara các chỉ dẫn và được minh họa bằng các ví dụ cụthể để các lập trình viên, các công ty, giới CNTT cóthể biến các dữ liệu (và các qui trình) được mô hìnhhóa và tiêu chuẩn hóa thành các ứng dụng – dịch vụCPĐT sử dụng được có hiệu quả và an ninh vào thựctế cuộc sống.

Mộtcâu hỏi được đặt ra khi chúng ta mong muốn đưa ra cácdự án mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu là sẽtập trung vào cái gì? Trong thực tiễn triển khai các ứngdụng – dịch vụ CPĐT, chúng ta có thể thấy có các môhình dữ liệu đặc thù và cácmô hình dữ liệu chung:

  1. Mô hình dữ liệu đặc thù

Mô hình dữ liệu đặc thù được hiểulà mô hình dữ liệu thường chỉ được sử dụng trongmột lĩnh vực ứng dụng thậm chí khi vài cơ quan nhànước có thể có liên quan trong việc trao đổi các dữliệu đặc thù đó. Một ví dụ về mô hình dữ liệunhư vậy là lĩnh vực các dịch vụ đăng ký của côngdân như đăng ký chứng sinh, đăng ký kết hôn, đăng kýbằng lái xe máy và ô tô, đăng ký kinh doanh...

  1. Mô hình dữ liệu chung.

Ngượcvới mô hình dữ liệu đặc thù, mô hình dữ liệu chunglà các mô hình dữ liệu được sử dụng trong nhiềulĩnh vực ứng dụng khác nhau. Ví dụ của các mô hình dữliệu như vậy như các dữ liệu có liên quan tới từngcá nhân, như “Họ và Tên” và “Địa chỉ”...

D.MỘT SỐ GỢI Ý

Vớimục đích để hỗ trợ và phối hợp sự phát triển vàcung cấp các tiêu chuẩn kỹ thuật cho trao đổi dữ liệuđiện tử, sao cho các qui trình hành chính điện tử cóthể được triển khai có hiệu quả và theo một cáchthức thống nhất, gợi ý thiết lập một số dự án môhình hóa và tiêu chuẩn hóa dữ liệu ban đầu cho các ứngdụng – dịch vụ CPĐT như:

  1. Quản lý các qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành chính

  2. Các dịch vụ đăng ký của công dân đối với các cơ quan hành chính nhà nước

  3. Các giao tiếp pháp lý điện tử

  4. Nhà đất – Xây dựng – Công trình

  5. Các dịch vụ tài chính

  6. Đăng ký các phương tiện giao thông

Đểthực hiện được các dự án mô hình hóa và tiêu chuẩnhóa như gợi ý ở trên, cần thiết phải xây dựng cácnhóm làm việc với các chuyên gia đại diện cho cácchuyên ngành và các dự án tiêu chuẩn hóa được nêunhư:

  1. Nhóm xác định và định nghĩa các mô hình dữ liệu chung để đưa ra được các mô hình và tiêu chuẩn cho các mô hình dữ liệu chung đó sẽ được đưa vào triển khai trong thực tế trong các dự án tiêu chuẩn hóa khác nhau được nêu ở trên.

  2. Nhóm phổ biến và triển khai các tiêu chuẩn để đưa các kết quả được mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa trong các dự án nêu trên vào được trong thực tế thông qua các qui định chung, kể cả việc thay đổi các phiên bản các kết quả khi cần.

Cáckết quả của việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữliệu cần phải được công bố rộng rãi trên các sitephục vụ cho việc xây dựng CPĐT để các đơn vị, cảcác đơn vị thụ hưởng là các cơ quan hành chính nhànước và các công ty tham gia xây dựng các ứng dụng vàdịch vụ CPĐT luôn có khả năng truy cập để tham khảobất kỳ lúc nào họ muốn, giúp cho các đơn vị đónhững thông tin chính thống và chính xác khi xây dựng cácứng dụng – dịch vụ CPĐT.



Cáckết quả không chỉ giới hạn ở các tài liệu mô hìnhhóa và các tiêu chuẩn, mà còn có thể là cả các tàiliệu chỉ dẫn thực hiện, các công cụ cho việc tựđộng hóa cho việc tạo các mô hình – sơ đồ, các yêucầu đặc thù cho từng dự án và các kho chứa đượcphân loại một cách khoa học và rõ ràng... Tất cả nhữngkết quả này sẽ giúp rất nhiều cho các lập trình viêncác công ty CNTT khi xây dựng các ứng dụng, dịch vụCPĐT.

E.LỜI KẾT

Xâydựng thành công các ứng dụng – dịch vụ CPĐT là mộtcông việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi sự kết hợplàm việc cả từ phía những người có chuyên môn vềhành chính và CNTT.

Nhữngngười làm việc chuyên môn về CNTT không thể làm thaycác công việc của những người có chuyên môn về hànhchính, nhưng có thể giúp một cách đắc lực cho nhữngngười có chuyên môn về hành chính trong việc mô hìnhhóa và tiêu chuẩn hóa các qui trình nghiệp vụ và thủtục hành chính bằng các công cụ và các tiêu chuẩnCNTT.

Bêncạnh việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các qui trìnhnghiệp vụ và thủ tục hành chính, điều quan trọng khácphải tiến hành là mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa dữliệu, cả các dữ liệu chung và các dữ liệu đặc thù.

Đểtiến hành việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa các quitrình nghiệp vụ, các thủ tục hành chính và các dữliệu, cần có bộ máy những người chuyên nghiệp đểthực hiện, là các chuyên gia từ các dự án mô hình hóavà tiêu chuẩn hóa phục vụ cho CPĐT.

Kếtquả của việc mô hình hóa và tiêu chuẩn hóa cần phảiđược đưa lên công khai trên Internet để bất kỳ aitham gia trong quá trình xây dựng các ứng dụng - dịch vụcho CPĐT cũng có thể truy cập được tới chúng bất kỳlúc nào, kể cả các phiên bản cập nhật – nâng cấpcủa các kết quả đó.

TrầnLê

Bàiđăng trên tạp chí Tin học & Đời sống, số tháng09/2012, trang 66-69.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập144
  • Máy chủ tìm kiếm7
  • Khách viếng thăm137
  • Hôm nay22,738
  • Tháng hiện tại542,921
  • Tổng lượt truy cập36,601,514
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây