Posted 2 May 2012 byGunnar Hellekson(Red Hat)
Image by opensource.com
Lờingười dịch: “Chúng ta thấy sự áp dụng của nguồn mởtrong chính phủ Liên bang như một sự tiến hóa: các bướcđầu vụng trộm lén lút cuối những năm 1990 và đầunhững năm 2000, được biểu thị trong những nghiên cứuvà tiểu luận thuyết phục. Từ đó, những tổ chức rõràng như NASA và Quân đội nắm lấy vai trò lãnh đạotrong áp dụng nguồn mở. Từ 2003 tới 2009, một loạtchính sách chính thức hóa sử dụng của nó khắp chínhphủ. Bằng việc đóng lại thập kỷ đầu tiên, NhàTrắng, NASA, Văn phòng Quản lý và Ngân sách, và các cơquan khác không chỉ sử dụng nguồn mở, mà còn tạo ravà phát hành PMNM của riêng họ”. Đó là Chính phủ Mỹ.Bạn hãy đọc kỹ bài tuyệt vời này, vì nó có rấtnhiều các tham chiếu tới các tài liệu để chứngminh một điều: Mỹ là Chính phủ sử dụng phần mềmnguồn mở vào loại nhiều nhất thế giới, với nhữngchính sách về nguồn mở vào loại tiên tiến nhất thếgiới. Ai đó muốn nói khác, bạn đơn giản hãy chỉ tớibài viết này.
Khó tưởng tượngchính phủ Liên bang dịch chuyển theo một hướng đượcphối hợp tốt trong bất kỳ vấn đề gì, và như thếcả với sự áp dụng phần mềm nguồn mở (PMNM). Một sốcơ quan từng là những nơi sớm áp dụng, đặc biệt cáccộng đồng hàn lâm và nghiên cứu. Khi nó có trong cáctrường đại học, sự áp dụng của nguồn mở trongchính phủ Mỹ có xuất xứ trong các thiết lập nghiêncứu, nơi mà việc chia sẻ và cộng tác đã từng là mộtphần của văn hóa sư phạm. Theo cách này, chính phủ đãvà đang sử dụng và tạo ra PMNM thậm chí trước khi nóđược gọi là “nguồn mở”. Các cơ quan và phòng bankhác đã từng bảo thủ hơn, vì một loạt các lý do, vàchỉ bây giờ mới đang mang PMNM vào các hoạt động củahọ. Với điều đó trong đầu, lịch sử của nguồn mởtrong chính phủ Mỹ được hiểu tốt nhất như một loạtcác câu chuyện riêng rẽ mà một cách cộng tác đã dẫntới sự áp dụng lan tràn khắp của nguồn mở mà chúngta thấy hôm nay.
Đó từng là vào năm1997 nguồn mở như một xu thế điện toán doanh nghiệp đãnổi lên, và chính phủ Mỹ đã ở đó. Trong khi EricRaymond đã viết luận thuyết của ông về nguồn mở,“Nhàthờ lớn và cái chợ”, thì một Thiếu tá trong KhôngLực Mỹ tên là Justin Seiferth đã xuất bản cuốn “Cáchệ thống Tiền sảnh Intranet Dựa vào Linux” trênLinux Gazette. Bài báo này đã mô tả một trình thăm dòđơn giản dựa vào web cho các máy chủ tệp Windows đượcxây dựng trong hệ điều hành Linux. Điều này có lẽ làsự thừa nhận công khai lần đầu tiên về sử dụng củaChính phủ Mỹ PMNM như chúng ta biết nó hôm nay.
Vài năm sau đó, nhữngngười bảo vệ trong khu vực tư nhân và nhân viên cẩntrọng trong chính phủ đã bắt đầu cam kết cho nhữngcâu hỏi vẫn còn đối diện nguồn mở hôm nay: Nó cóthực sự sẵn sàng không? Nó có an ninh không? Làm thếnào chúng ta sử dụng nó được? Vào năm 1999, Mitch Stoltzcủa NetAction đã viết tiểu luận thuyết phục đầu tiênvề chủ đề này, “Trường hợp cho sự Thúc đẩy PMNMcủa Chính phủ”. Stoltz viện tới nhiều lý lẽ mà vẫncòn là đang được sử dụng hôm nay: chi phí thấp hơn,tính mềm dẻo được gia tăng và an ninh tốt hơn. Cùngnăm đó, Nhà điều phối Quốc gia của Tổng thống vềAn ninh, Bảo vệ Hạ tầng và Chống Khủng bố đã nhómhọp một nhóm làm việc nhiều tổ chức để giới thiệu“Mã nguồn mở và An ninh của các Hệ thống Liên bang”.Báo cáo đó là nghiên cứu chính thức đầu tiên củanguồn mở của chính phủ liên bang.
Itis difficult to imagine the Federal government moving in onewell-coordinated direction on any matter, and so it has been with theadoption of open source software. Some agencies were early adopters,especially the academic and research communities. As it did inuniversities, open source adoption in the US government originated inresearch settings, whe-re sharing and collaboration were already partof the culture of pedagogy. In this way, the government had beenusing and creating open source software even before it was called"open source." Other agencies and departments have beenmore conservative, for a variety of reasons, and are only just nowbringing open source software into their operations. With this inmind, the history of open source in the US government is bestunderstood as a series of individual stories that have collectivelyled to the pervasive adoption of open source we see today.
Itwas in 1997 that open source as an enterprise computing trendemerged, and the US government was there. While Eric Raymond waswriting his seminal treatise on open source, "TheCathedral and the Bazaar," a Major in the US Air Force namedJustin Seiferth published "IntranetHallways Systems Based on Linux" in the Linux Gazette. Thisarticle described a simple web-based explorer for Windows fileservers built on the Linux operating system. This may be thefirst public acknowledgment of the US Government’s use of opensource software as we know it today.
Forthe next several years, advocates in the private sector and cautiousstaff in government began to engage the questions that still confrontopen source today: Is it ready? Is it secure? How do we use it? In1999, Mitch Stoltz of NetAction wrote the first persuasive essay onthe topic, "TheCase for Government Promotion of Open Source Software."Stoltz invokes many arguments that are still being used today: lowercost, increased flexibility, and better security. That same year, thePresident’s National Coordinator for Security, InfrastructureProtection, and Counter-Terrorism convened a multi-agencyworking group to produce "Open Source Code and the Security ofFederal Systems." That report is the first official study ofopen source by the federal government.
Whileat the Air Command and Staff College, Major Seiferth returns to ourhistory again, this time publishing a research report on thepotential benefits of open source specifically in the DOD. Seiferthnotes ironically that the US Government is atonce reluctant to use open source, and a great creator of open sourceprojects:
Trong khi Chỉ huy Khôngquân và Cao đẳng Nhân sự, Thiếu tá Seiferth quay về vớilịch sử của chúng ta một lần nữa, thì lần này xuấtbản một báo cáo nghiên cứu về những lợi ích tiềmtàng của nguồn mở đặc biệt trong Bộ Quốc phòng.Seiferth lưu ý một cách mỉa mai rằng Chính phủ Mỹ cùngmột lúc vừa phớt lờ sử dụng nguồn mở, và vừa làmột nhà sáng tạo lớn của các dự án nguồn mở:
“Bên trong Bộ Quốcphòng, các Phòng thí nghiệm Quốc gia và Cơ quan Nghiên cứuTiên tiến Quốc phòng từng là những người sử dụng vàcác nhà sản xuất nổi bật nhất các hệ thống đượccấp phép mở. Họ đã tung ra những tiến bộ như các bộcông cụ tường lửa ban đầu và an ninh mạng. Như mộtví dụ gần đây, vào năm ngoái Cơ quan Hàng không Vũ trụNASA đã trình diễn lần đầu vài siêu máy tính không đắtgiá. Các hệ diều hành và các ứng dụng được cấpphép mở đã cho phép mở rộng phạm vi của các máy dựavào Pentium không đắt giá trong một hệ thống tích hợpphần cứng/ phần mềm. Bổ sung thêm vào sự không đắtgiá, những máy đó là trong số mạnh nhất hiện có”.
Seiferth,giống như Stoltz, tiến hành một số lý luận quen thuộcvề nguồn mở, nhưng sự hiểu thấu lớn nhất của ônglà nguồn mở là phần mềm “thương mại dùng đượcngay” - COTS (Commercial Off-the-Shelf). Điều này là đángkể, vì nó có nghĩa rằng nguồn mở có khả năng sửdụng chính sách và những qui định hiện hành mà đãđược tạo ra rồi cho phần mềm nói chung hơn, hơn làđược đối xử như một trường hợp đặc biệt và vìthế gây cản trở cho sự áp dụng của nó. Điều nàysau đó sẽ trở thành chính sách rõ ràng dứt khoát củaVăn phòng Quản lý và Ngân sách, cũng như Bộ Quốc phòng.
Ngay năm sau có mộtsự bùng nổ hoạt động về nguồn mở trong chính phủ.Trong khu vực tư nhân, IBM đã công bố rằng họ đang đầutư 1 tỷ USD vào dự án Linux. ViệnPhần mềm Nguồn Mở đã được thành lập để giúpáp dụng nguồn mở trong chính phủ Liên bang.
Trong khi chờ đợi,sự áp dụng của chính phủ tiếp tục gia tăng. Chúng tabắt đầu thấy cuộc đấu vật muasắm thiết bị với việc cấp phép nguồn mở trong cácmua sắm. “Đảmbảo sự triển khai thành công của các khoản thương mạitrong các hệ thống Không quân” của Ban Cố vấn Khoahọc Không lực Mỹ là chỉ dẫn mua sắm đầu tiên nhắctới nguồn mở dứt khoát.
"Withinthe Department of Defense, the National Laboratories and DefenseAdvanced Research Agency have been the most visible users andproducers of open licensed systems. They’ve released such advancesas the original firewall and network security toolkits. As a morerecent example, within the last year the National Air and SpaceAgency has debuted several inexpensive supercomputers. Open licensedoperating systems and applications allowed the scaling of inexpensivepentium-based machines into an integrated hardware/software system.In addition to being inexpensive, these machines are among the mostpowerful available."
Seiferth,like Stoltz, makes a number of familiar arguments for open source,but his greatest insight is that open source is ”CommercialOff-the-Shelf” (COTS) software. This is significant, because itmeans that open source would be able to use the existing policy andregulations that had already been cre-ated for software moregenerally, rather than being treated as a special case and thushampering its adoption. This will later become the explicit policy ofthe Office of Management and Budget, as well as the Department ofDefense.
Thevery next year brings an explosion of open source activity ingovernment. In the private sector, IBM announced that they areinvesting onebillion dollars in the Linux project. The OpenSource Software Institute was founded to aid the adoption ofopen source in the Federal government.
Meanwhile,government adoption continues apace. We begin to see the procurementapparatus wrestle with open source licensing in procurements. The USAir Force Scientific Advisory Board’s “EnsuringSuccessful Implementation of Commercial Items in Air Force Systems”is the first procurement guidance to explicitly mention open source.
Dù vậy, một số cơquan không chờ đợi. Cơ quan An ninh Quốc gia - trước sựngạc nhiên của các đồng nghiệp của nó và của cộngđồng nguồn mở - đã đưara SELinux, mà đã cung cấp một tập hợp các kiểmsoát an ninh mạnh cho hệ điều hành Linux. Làm như vậy,NSA đã nắm lấy công nghệ từng hữu dụng cho một tậphợp rất nhỏ các khách hàng, và vì thế đã rất đắtgiá, và đã làm nó sẵn sàng tự do cho công chúng nóichung. Sáng tạo nhanh, phần mềm được cải thiện, vàSELinux vẫn còn được sử dụng trong Linux hôm nay. Gầnđây nhất, SELinuxđã được chuyển sang hệ điều hành Android, nơi mànó đưa ra sự bảo vệ điện thoại di động cho nhữngngười sử dụng chống lại những ứng dụng thù địch.Đây từng không phải là lần đầu tiên chính phủ Mỹđã phát hành phần mềm, nhưng nó đã tạo nên nhữngdòng tít hàng đầu vì nó từng là một sự phê chuẩn rõràng qui trình nguồn mở được cho rằng của cơ quan tìnhbáo tỉnh táo nhất về an ninh.
Cơn gió mạnh cáchoạt động tiếp tục trong năm 2001, với MITRE đưa ra“Tiếnhành Trường hợp Điển hình cho PMNM”. Tài liệu này,sự đối xử toàn diện nhất của nguồn mở tới thờiđiểm đó, đã được xuất bản như một phần củanghiên cứu rộng lớn hơn “PMNM trong các Hệ thống Quânsự” mà Quân đội Mỹ đã ủy quyền cho MITRE. Báo cáokết luận: “Nguồn mở sẽ làm lợi cho chính phủ bằngviệc cải thiện tính tương hợp, truy cập lâu dài tớicác dữ liệu, và khả năng kết hợp công nghệ mới”.Ở đây, chúng ta thấy Quân đội Mỹ,người sau này đã trở thành một trong những người sửdụng nguồn mở lớn nhất trên thế giới, tiến hànhnhững bước khai phá đầu tiên của nó.
Cột mốc chính tiếpsau là vào năm 2003, với sự phát hành của “Bảnghi nhớ Stenbit” hôm 28/05, CIO John Stenbit của Bộ Quốcphòng đã phát hành chỉ dẫn rộng rãi đầu tiên của BộQuốc phòng về PMNM, mà cho phép chắc chắn mua sắm, pháttriển và sử dụng nó. Trong khi chờđợi, Quân đội bắt đầu triển khai “Người theo dõiLực lượng Xanh”, chạy trên PMNM, cho hơn 80.000 xe chiếnthuật. Nổi tiếng, Tướng Nicholas Justice tuyên bố: “Khichúng ta tiến vào Baghdad, chúng ta đã sử dụng nguồnmở”.
Someagencies aren’t waiting, though. The National Security Agency —to the astonishment of its peers and the open source community– releases SELinux,which provided a set of strong security controls to the Linuxoperating system. In doing so, the NSA was taking technologythat had been useful to a very small set of customers, and wastherefore very expensive, and made it freely available to the generalpublic. Innovation quickened, the software improved, and SELinux isstill used in Linux today. Most recently, SELinuxwas ported to the Android system, whe-re it provides mobile phoneusers protections against hostile applications. This wasn’t thefirst time the US government has released software, but it madeheadlines because it was an implicit endorsement of the open sourceprocess by arguably the most security-conscious intelligence agency.
Thisflurry of activity continues into 2001, with MITRE releasing"Makingthe Business Case for Open Source Software." This document,the most comprehensive treatment of open source to that point, waspublished as part of the larger “Open Source Software in MilitarySystems” study which the US Army had commissioned f-rom MITRE. Thereport concludes: “Open source will benefit the government byimproving interoperability, long term access to data, and the abilityto incorporate new technology.” Here, we see the US Army, who islater to become one of the largest open source users in the world,taking its first exploratory steps.
Thenext major milestone is in 2003, with the release of the "StenbitMemo." On May 28, the DOD CIO John Stenbit released thefirst DOD-wide guidance on open source software, which implicitlypermits its acquisition, development, and use. Meanwhile, the Armybegins to deploy the "Blue Force Tracker," running on opensource software, to over 80,000 tactical vehicles. Famously, GeneralNicholas Justice proclaims, “When we rolled into Baghdad, we did itusing open source.” Nine months later, in July of 2004, the OMBissues a memo similar to the Stenbit Memo that covers the governmentas a whole. At approximately the same time, NASA releases the verypopular World Windgeospatial visualization project under the newly-minted "NASAOpen Source Agreement." Six months later, Red Hat, theworld’s largest open source company at the time, cre-atesa US Government division and the first GovernmentOpen Source Conference (GOSCON) is held in Portland, Oregon.
9 tháng sau, vào tháng07/2004, OMB đưa ra một bản ghi nhớ tương tự Bản ghinhớ của Stnbit mà bao trùm toàn bộ chính phủ. Khoảngcùng thời gian đó, NASA đưa ra dự án ảo hóa địa chấtrất nổi tiếng Gió Thếgiới (World Wind) theo ý đồ mới “Thỏathuận Nguồn mở của NASA”. 6 tháng sau, Red Hat, côngty nguồn mở lớn nhất thế giới khi đó, tạora một đơn vị của Chính phủ Mỹ và Hộinghị Nguồn Mở Chính phủ lần đầu tiên (GOSCON) đãđược tổ chức tại Portland, Oregon.
Trongnăm 2006, Sue Peyton, Trợ lý bên Không quân của Bộ trưởngQuốc phòng về Mua sắm, được ủy quyền về “Lộtrình Phát triển Công nghệ Mở”,mà đi vượt ra khỏi những lợi ích đơn giản của nguồnmở, và mô tả cách nó có thể được đặt ra cho sửdụng hiệu quả trong ngữ cảnh của học thuyết HướngMạng của Bộ Quốc phòng, mà từng là thời thượng lúcđó. Đây là nỗ lực đầu tiên dóng các nguyên tắccủa nguồn mở với một chiến lược tổng thể của cơquan, thể hiện cách những người bảo vệ nguồn mởhiểu biết bên trong chính phủ đã tới.
Trong năm 2007, Hảiquân Mỹ đã ủy quyền cho Raytheon, IBM và Red Hat bổsung các tính năng “thời gian thực” vào nhân Linux,mà nó đã yêu cầu đối với kẻ hủy diệt mới mà nótừng xây dựng. Đáng kể, Hải quân đã đảm bảo rằngphần mềm được phát hành trong cộng đồng nguồn mở.Ngay sau đó, CIO Robert Carey của Hải quân đã phát hànhBảnghi nhớ Nguồn mở của Hải quân, mà dứt khoát phânloại nguồn mở như là phần mềm COTS. Đây là sự thayđổi đáng kể hòa giọng từ bản ghi nhớ của Stenbit vàcác bản ghi nhớ của OMB năm 2004, mà chỉ cung cấp hoàntoàn chỉ dẫn y hệt này.
Sử dụng nguồn mởtiếp tục bùng nổ. Vào tháng 09/2008, Khảosát Nguồn mở do Microsoft cấp vốn đã báo cáo rằngsử dụng nguồn mở trong chính phủ từng cao hơn so vớibất kỳ ngành công nghiệp nào khác. Nghiên cứu Trưngcầu dân ý về Nguồn mở của Liên bang của Liên minhNguồn mở Liên bang đã nói rằng, 71% các lãnh đạo cơquan tin tưởng họ có thể hưởng lợi từ nguồn mở và58% nói họ đã có khả năng xem xét nguồn mở.
In2006, Sue Peyton, the Air Force Assistant Secretary of Defense forAcquisition, commissioned the "OpenTechnology Development Roadmap," which goes beyond thesimple benefits of open source, and describes how it can be put toproductive use in the context of the DOD’s Net-Centric doctrine,which was in fashion at the time. This is the first effort to alignthe principles of open source with an overall agency strategy,demonstrating how savvy open source advocates inside the governmenthave become.
In2007, the US Navy commissioned Raytheon, IBM, and Red Hat to add“real-time” features to the Linux kernel, which it requiredfor the new destroyer it was building. Significantly, theNavy ensured that the software is released into the open sourcecommunity. Shortly thereafter, the US Navy CIO Robert Carey releasesthe NavyOpen Source Memo, which explicitly classifies open source as COTSsoftware. This is a significant change in tone f-rom the Stenbit memoand OMB memos of 2004, which only implicitly provide this sameguidance.
Opensource use subsequently explodes. By September of 2008, theMicrosoft-funded OpenSource Census was reporting that open source use in governmentwas higher than any other industry. The Federal Open SourceAlliance’s FederalOpen Source Referendum study reported that, 71% of agencyexecutives believed they could benefit f-rom open source and 58% saidthey were likely to consider open source.
Hành động đầu tiêncủa Chính quyền Obama khi lên nắm quyền là phát hành Bảnghi nhớ Chính phủ Mở,mà đã khớp nối một chínhsách chung về “sự minh bạch, sự cộng tác và sự thamgia”. Tiếp đó những sáng kiến của các cơ quan đã đặctrưng nổi bật PMNM như một biện pháp để đạt đượcnhững mục đích đó. Các chính sách nguồn mở đã bắtđầu đổ ra từ các chính phủ ở mức liên bang, bang vàđịa phương. NASA, đặc biệt, đã làmPMNM và qui trình phát triển nguồn mở trở thành nềnmóng của kếhoạch chính phủ mở của họ. Trong khu vực tư nhân,Nguồn mở vì nướcMỹ (OSFA) đã được thành lập. Liên minh của giớicông nghiệp, những người bảo vệ và các cá nhân nàytrở thành nguồn trung tâm cho những người bảo vệ PMNMtrong chính phủ. Tháng 8 năm đó, MaconPhillips, Giám đốc Truyền thông mới của Nhà Trắng,người có lẽ sau đó đưa ra những phần của phần mềmcho whitehouse.gov, được gọi là nguồn mở “... dạngcụ thể nhất của sự tham gia dân sự”.Rõ ràng, nguồn mở và chính phủ mở đã trở thành cóliên quan chặt chẽ.
Tháng 10/2009, “Bảnghi nhớ Nguồn mở của Bộ Quốc phòng” đã đượcphát hành từ David Wennergren, CIO của Bộ Quốc phòng. Bảnghi nhớ này tạo nên những tít hàng đầu trên khắp thếgiới, và vẫn còn giữ là tài liệu chính sách có ảnhhưởng lớn nhất duy nhất của chính phủ về nguồn mởngày hôm nay. Bản thân bản ghi nhớ là đơn giản, và đitheo tuyên bố của Hải quân 2 năm trước đó, nhắc lạicho các quan chức mua sắm rằng PMNM là COTS. Những phụlục cho bản ghi nhớ, dù, đi sâu vào chi tiết hơn vềnhững ưu điểm và rủi ro tiềm tàng của PMNM. Bản ghinhớ đó đặc biệt khuyến khích Bộ Quốc phòng tậndụng khả năng của mình để sửa đổi phần mềm chophù hợp với nhu cầu của một nhiệm vụ.
TheObama Administration’s first act on taking office was to issue theOpenGovernment Memo, which articulated a general policy of"transparency, collaboration, and participation."Subsequent agency initiatives prominently featured open sourcesoftware as a means to achieve those goals. Open source policiesbegan to pour out of governments at the federal, state andlocal level. NASA, in particular, made open sourcesoftware and the open source development process a cornerstone oftheir open government plan.In the private sector, OpenSource for America was founded. This coalition of industry,advocates, and individuals is meant to be a central resource foradvocates of open source software in government. That August, MaconPhillips, the White House New Media Director who would later releaseportions of the software for whitehouse.gov, called open source “…themost concrete form of civic participation.” Clearly, opensource and open government became inextricably related.
InOctober of 2009, the “DODOpen Source Memo” is released by David Wennergren, the DOD CIO.This memo got headlines around the world, and remains the single mostinfluential government policy document on open source today. The memoitself is simple, and following the Navy’s declaration two yearsearlier, reminds procurement officials that open source software isCOTS. The appendices to the memo, however, go into much more detailabout the potential advantages and risks of open source software. Thememo specifically encourages the DOD to take advantage of its abilityto modify software to suit a mission’s need.
Cuối năm 209, CENDI,một tổ chức các lãnh đạo chính phủ, đưa ra một Hỏiđáp thường gặp về bản quyền và nguồn mở đểgiúp các luật sư các cơ quan hiểu được việc cấp phépnguồn mở và đôi khi lúng túng các câu hỏi về sở hữutrí tuệ mà họ đặt ra. Ít tháng sau, lần đầu tiên kểtừ năm 2004, OMB tái tạo lại chỉ dẫn nguồn mở vớibản ghi nhớ “Tínhtrung lập về Công nghệ”, nhắc nhở các cơ quan rằngsự cạnh tranh trong phần mềm là quan trọng, và rằng họbị cấm không được phân biệt đối xử chống lạiphần mềm dựa vào phương pháp phát triển của nó. Khibản ghi nhớ này được phát hành, hầu hết các rào cảncho sự áp dụng nguồn mở đã bị thu nhỏ hoặc bị xóabỏ trong chính phủ Mỹ.
Được bỏ gánh nặng,nguồn mở đã tiếp tục sự tăng trưởng của nó trongnăm 2011. Lộ trình Phát triển Công nghệ Mở của SuePeyton từ 2006 nhận được một sự tiếp tục “Nhữngbài học học được”, mà đưa ra những khuyến cáocho các chương trình của Bộ Quốc phòng có quan tâm trongviệc phát hành phần mềm của riêng họ. Eben Moglen, mộttrong những luật sư nguồn mở nổi tiếng nhất trongnước, và đứng đầu Trungtâm Luật Tự do cho Phần mềm, phát hành “Muasắm Phần mềm Máy tính của Chính phủ và Giấy phép GNUGeneral Public License”, giải thích những điều khoảncủa giấy phép nguồn mở rất phổ biến đó trong ngữcảnh của các qui định mua sắm trong chính phủ.
Laterin 2009, CENDI, an organization of government managers, issuesa FAQ on copyright and open source to help agency lawyersunderstand open source licensing and the sometimes confusingintellectual property questions that they pose. A few months later,for the first time since 2004, OMB refreshes its open source guidancewith the “TechnologyNeutrality” memo, reminding agencies that competition insoftware is important, and that they are forbidden f-romdiscriminating against software based on its developmentmethod. Once this memo was published, most of the barriersto open source adoption had been diminished or eliminated in the USgovernment.
Unburdened,open source continued its growth in 2011. Sue Peyton’s OpenTechnology Development Roadmap f-rom 2006 receives a “LessonsLearned” sequel, which makes recommendations to DOD programsinterested in releasing their own software. Eben Moglen, one ofthe most prominent open source lawyers in the country, and head ofthe Software Freedom LawCenter, releases “GovernmentComputer Software Acquisition and the GNU General Public License,”which explains the provisions of that very popular open sourcelicense in the context of government procurement regulations.Clearly, the government’s understanding of open source had grownmore sophisticated since its first tentative forays a decade before.A surveyconducted by Lockheed Martin at this time found that 69% ofgovernment contractors and 40% of federal agency respondents werealready using open source. The survey also found that 66% of allrespondents said that they would be using more open source in thenext 12-18 months.
Rõ ràng, sự hiểubiết của chính phủ về nguồn mở đã tăng lên phứctạp hơn kể từ sự đột phá ướm thử lần đầu mộtthập kỷ trước. Mộtkhảo sát được Lockheed Martin tiến hành khi đó thấyrằng 69% các nhà thầu của chính phủ và 40% những ngườiđược hỏi của các cơ quan chính phủ đã và đang sửdụng nguồn mở. Khảo sát đó cũng thấy rằng 66% tấtcả những người được hỏi nói rằng họ muốn sửdụng nhiều nguồn mở hơn trong 12-18 tháng tới.
Với sự thuận tiệngia tăng này, năm 2011 cũng được thấy sự phát hành củaPMNM từ chính phủ hơn bao giờ hết trước đó. Nhà Trắngđã phát hành những phần mã nguồn cho whitehouse.gov, mãnguồn cho Bảng điều khiển CNTT của CIO Liên bang, và nềntảng data.gov. Vào cuối năm 2011, CIO Liên bang đã công bốmột phác thảo chính sách “Chia sẻ Trước”, nó bắtbuộc sử dụng lại và chia sẻ các tài nguyên CNTT giữacác cơ quan dân sự, và đặc biệt nhắc rằng các cơquan nên cộng táctrong phát triển phần mềm. Hơn nữa, NASA phát hànhcode.nasa.gov, một dự án bước ngoặt để tập trung hóatất cả mã nguồn được phát hành từ NASA trong websitethân thiện với các công dân.
Chúngta thấy sự áp dụng của nguồn mở trong chính phủ Liênbang như một sự tiến hóa: các bước đầu vụng trộmlén lút cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, đượcbiểu thị trong những nghiên cứu và tiểu luận thuyếtphục. Từ đó, những tổ chức rõ ràng như NASA và Quânđội nắm lấy vai trò lãnh đạo trong áp dụng nguồn mở.Từ 2003 tới 2009, một loạt chính sách chính thức hóa sửdụng của nó khắp chính phủ. Bằng việc đóng lại thậpkỷ đầu tiên, Nhà Trắng, NASA, Văn phòng Quản lý vàNgân sách, và các cơ quan khác không chỉ sử dụng nguồnmở, mà còn tạo ra và phát hành PMNM của riêng họ.
Tôi đã quân mộtsự kiện chính nào không nhỉ? Một phát hành luật chủchốt nào? Hãy cho tôi biết trong các bình luận.
Withthis increased comfort, 2011 also saw the release of more open sourcesoftware f-rom the government than ever before. The White Housereleased portions of the code for whitehouse.gov, the code for theFederal CIO’s IT Dashboard, and the data.gov platform. At the endof 2011, the Federal CIO announced a draft “Shared First” policy,which mandates re-use and sharing of IT resources amongstcivilian agencies, and specifically mentions that agencies shouldcollaborate onsoftware development. Also, NASA releases code.nasa.gov, alandmark project to centralize all the source code released by NASAin one citizen-friendly web site.
Sowe see the adoption of open source in the Federal government as anevolution: the first furtive steps in the late 1990s and early 2000s,manifested in persuasive essays and studies. F-rom there, certainorganizations like NASA and the Army take leadership roles inopen source adoptions. F-rom 2003 to 2009, a series of policiesinstitutionalize its use throughout the government. By the close ofthe first decade, the White House, NASA, the Office of Management andBudget, and other agencies are not just using open source,but creating and releasing open source software of their own.
DidI miss a major event? A major code release? Let me know in thecomments.
Dịch: Lê Trung Nghĩa
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...