Tài liệu tranh luận về nguồn mở của Bộ Tư pháp New Zealand (Phần 2)

Thứ năm - 03/01/2008 06:32

Ministry of Justice Open Source Discussion Paper

Bài được đưa lên Internet ngày: 11/12/2007

Barry Polley, MoJ A&S, barry.polley@justice.govt.nz

Lời người dịch: Tài liệu này cho chúng ta một cách nhìn thực dụng hơn trong vấn đề ứng dụng và khai thác các phần mềm nguồn mở trong chính phủ. Bên cạnh đó, nó cũng sẽ giúp những người ra các quyết định, chính sách có liên quan tới phần mềm nguồn mở những tiếp cận mà các nước phát triển đi trước đã tổng kết. Điều này là rất cần thiết đối với việc ứng dụng và phát triển phần mềm nguồn mở tại Việt Nam hiện nay.

Objections

Các ý kiến phản đối

Có một số ý kiến phản đối chung đối với việc áp dụng chuyên nghiệp các PMNM. Hầu hết đều không có giá trị, hoặc không còn giá trị nữa vào năm 2007, nhưng những ý kiến khác còn có giá trị nhận biết vì sao PMNM sẽ không phù hợp với mọi nhu cầu về phần mềm của Bộ. Chúng tôi thấy có một cơ hội lớn lao để triển khai PMNM một cách rộng khắp bên trong Bộ để nâng cao tính ổn định và tinh thần trách nhiệm về phát triển các ứng dụng trong khi vừa giảm được các chi phí.

There are a number of common objections to enterprise adoption of Open Source Software (OSS). Most are invalid, or no longer valid in 2007, but others are worth acknowledging because OSS will not suit every Ministry software need. We see tremendous opportunity to deploy OSS widely within the Ministry to improve stability and application development responsiveness whilst reducing costs.

l Objection: Unreliable (too new to trust, unstable, and/or unsupportable)

l Ý kiến đóng góp: Không đáng tin cậy (quá mới để tin cậy được, không ổn định, và/hoặc không được hỗ trợ)

Các tiêu chuẩn vận hành cho phép Internet tồn tại là mở và đơn giản. Hơn nữa, các phần mềm lõi dựa trên các tiêu chuẩn này hầu hết là các PMNM – BIND, gcc, sendmail, .v.v. Ngay cả trong năm 2007, mỗi triển khai đơn của TCP/IP trong một hệ điều hành thương mại có nguồn gốc từ dòng BSD. Apache có sự thống trị dài lâu và lấn át như là sự lựa chọn cho máy chủ web trên hàng loạt các hệ điều hành. Các hãng tích hợp hệ thống lớn như IBM và Hewlett-Packard dựa trên PMNM để đưa ra các giải pháp cho các khách hàng của họ, và họ trả tiền cho hàng ngàn các nhà lập trình phát triển có tay nghề để làm việc trên các dự án PMNM. 81% trong số các công ty trong danh sách Fortune 500 chấp nhận việc sử dụng PMNM trong sản xuất [CIO ínight, 2006]. và dường như đúng rằng tỷ lệ áp dụng của nhóm các công ty trong Global 1000 còn cao hơn nhiều trong các trung tâm dữ liệu và các dự án hạ tầng. Việc cài đặt ban đầu cảu các công cụ hạ tầng PMNM có hoặc không thể được chấp thuận từ trước đó; chúng thường là được cài đặt một cách đặc biệt vì các nhà quản trị xem chúng là vận hành được và ổn định.

The operating standards allowing the Internet to exist are open and simple. Further, the core software based on those standards is mostly open source - BIND, gcc, sendmail, et al. Even in 2007, every single implementation of TCP over IP in a commercial operating system derives f-rom the BSD stack. Apache has enjoyed overwhelming and long-lived predominance as the webserver of choice on a wide variety of operating systems. Large systems integration firms like IBM and Hewlett-Packard rely on OSS to deliver solutions for their customers, and they pay thousands of skilled developers to work on OSS projects. 81% of the Fortune 500 admit to using OSS in production [CIO Insight, 2006], and it's highly likely that Global 1000 adoption rates are much higher in data centres and infrastructure projects. Initial installations of OSS infrastructure tools may or may not be approved beforehand; they're typically installed specifically because system administrators consider them functional and stable.

Tính đáng tin cậy và độ tin cậy được cải tiến bởi việc cung cấp truy cập tới mã nguồn. Rất khó khăn để giới thiệu virus Trojan horses (con ngựa thành Tơ roa) hoặc các cửa hậu trong PMNM hơn là trong các phần mềm sở hữu độc quyền. Các lỗi mã đơn giản như kiểm tra dãy bên ngoài và các lỗi tinh xảo hơn như tràn bộ nhớ đệm dễ dàng gặp phải hơn bởi hàng tá các nhà lập trình phát triển bên ngoài hơn bởi một ít các nhà lập trình phát triển bên trong. Sự cải thiện về tốc độ thực thi thông qua việc tạo lại cũng như các sửa lỗi đơn giản trở nên nhanh hơn nhiều với PMNM hơn là với ngay cả nhà cung cấp phần mềm sở hữu độc quyền chu đáo nhất, nơi mà các nhà lập trình phát triển được giữ cách ly một cách có thể được khỏi những lỗi mà người sử dụng thông báo. Cuối cùng, có sự cải thiện trong tính có thể hỗ trợ được vốn thuộc về việc đọc được mã nguồn; các nhà lập trình phát triển có thể học được bằng việc đọc chính xác làm thế nào một sản phẩm nào đó làm việc và vì thế làm thế nào để thay đổi được nó. Ngược lại, những thay đổi đó có thể được chỉnh sửa bởi những nhà lập trình phát triển khác nữa về an ninh, tốc độ thực thi và những cải tiến về tính ổn định.

Trustworthiness and reliability are enhanced by providing access to source code. It is far more difficult to introduce Trojan horses or backdoors into OSS than into proprietary software. Simple coding errors such as poor range checking and more insidious errors such as buffer overflows are more easily spotted by dozens of external developers than by a few in-house ones. Performance improvements through refactoring as well as simple bug fixes turn around far faster with OSS than with even the most conscientious proprietary software vendor, whe-re developers are kept as isolated as possible f-rom user-reported faults. Finally, there is an improvement in supportability inherent in reading source code; developers can learn by reading exactly how a given product works and therefore how to change it. In turn, those changes can be scrutinised by other developers for security, performance, and stability improvements.

l Objection: No commercial support

l Ý kiến đóng góp: hỗ trợ thương mại

Các công ty phần mềm như Red Hat có một thị trường mạnh về tích luỹ tư bản và kiếm tiền dựa hoàn toàn trên PMNM. Các công ty khác đang đầu tư vào các dự án PMNM để hỗ trợ việc kinh doanh gốc của họ; ví dụ, HP bán các máy chủ và các giải pháp lưu trữ, và những đóng góp của họ đối với Linux là rẻ hơn việc bảo hành hiện hành được yêu cầu đối với HP-UX sở hữu độc quyền của họ và các công cụ có liên quan. (Linux không phải là những gì họ bán, nhưng có Linux để cho phép HP bán nhiều phần cứng hơn. HP-UX không còn là một trung tâm có lãi nữa, nhưng một trung tâm về giá thành sẽ được kiểm soát). Còn có các nỗ lực đầu tư vào PMNM được thay thế một cách cạnh tranh; ví dụ, những đóng góp của IBM cho các công cụ quản lý hệ thống và phát triển web được thiết kế để lấy lại doanh số từ Microsoft, mà hãng đã có được thành công rực rỡ trong lịch sử khi chi phí của IBM trong các công ty cỡ vừa bởi việc thay thế các hệ thống AS/400 bằng các hệ thống dựa trên Windows.

Software companies such as RedHat have a solid market capitalisation and earnings based entirely on OSS. Other companies are funding OSS projects to assist their core businesses; for example, HP sells servers and storage solutions, and their contributions to Linux are cheaper than ongoing maintenance required for their proprietary HP-UX and related tools. (Linux isn't what they sell, but having Linux be robust enables HP to sell more hardware. HP-UX is no longer a profit centre, but a cost centre to be controlled.) Still other OSS funding efforts are competitive displacement; for example, IBM's contributions to web development and systems management tools are designed to take revenue back f-rom Microsoft, which historically has had great success at IBM's expense in midsized firms by replacing AS/400 systems with Windows-based systems.

Các nhà cung cấp PMNM đang gia tăng đầu tư rủi ro; ví dụ từ 2007 bao gồm nhà cung cấp giám sát mạng IPO là GroundWork và EMC của VMWare. Nhà cung cấp hệ quản trị cơ sở dữ liệu nguồn mở MySQL dự kiến IPO vào đầu năm 2008. Các hãng này dự kiến cho việc tạo ra doanh số và lãi từ các dịch vụ và hỗ trợ.

Những rủi ro về hỗ trợ thực sự là lớn hơn với các phần mềm sở hữu độc quyền so với các PMNM. Các hãng phần mềm sở hữu độc quyền có thể đi khỏi vòng kinh doanh, đổ các tri thức bên trong của họ theo ngọn gió khi các nhà lập trình phát triển của họ tìm được chỗ thuê khác ở đâu đó. (Giao kèo về mã nguồn đưa ra một vài đảm bảo chống lại việc chảy máu này, nhưng mã nguồn sẽ bị hạn chế sử d ụng khi mà cộng đồng các nhà lập trình phát triển làm việc một cách mật thiết với nó chấm dứt tồn tại). Các sản phẩm có thể bị lãng quên vì chúng không đủ mang lại lợi nhuận, đòi hỏi các khách hàng phải sống với các rủi ro gia tăng từ việc sử dụng tiếp tục các phần mềm không được sửa đổi, hoặc giữ giá thành của việc chuyển đổi sang một hệ thống thay thế khác. Cuối cùng, các công ty phần mềm có thể bị mua bởi các đối thủ cạnh tranh, làm cho các sản phẩm có thể so sánh được bị bỏ rơi để giảm giá thành hỗ chợ của nhà cung cấp. Ngược lại, nếu PMNM là có sẵn, sẽ luôn có 2 sách lược hỗ trợ ở phương sách cuối cùng: người sử dụng có thể tự làm các thay đổi theo yêu cầu, hoặc họ trả tiền cho ai đó để có được những thay đổi đó. Thông thường thì một trong các nhà lập trình phát triển gốc của dự án PMNM có thể được thuê trực tiếp để cung cấp các tính năng tuỳ biến với giá thành thấp nhất, dù người sử dụng không phụ thuộc vào những thu xếp như vậy.

OSS suppliers are raising venture capital; examples f-rom 2007 include the IPO of network monitoring supplier GroundWork and EMC's spin-off of VMWare. OSS database supplier MySQL is expected to IPO in early 2008. Those companies expect to generate revenue and profits f-rom services and support.

Support risks are actually greater with proprietary software than with OSS. Proprietary software firms may go out of business, casting their in-house knowledge to the wind when their developers find employment elsewhe-re. (Source code escrow offers some assurance against this outcome, but source code is of limited use when the community of developers working intimately with it ceases to exist.) Products may be abandoned because they are insufficiently profitable, requiring customers to live with risks arising f-rom continued use of unmodifiable software, or to bear the costs of migrating to a replacement system. Finally, software firms may be acquired by competitors, resulting in comparable products being orphaned to reduce the vendor's support costs. By contrast, if OSS is available, there are always two support tactics of last resort: users can make required changes themselves, or they can pay someone else to make those changes. Frequently one of an OSS project's core developers can be hired directly to deliver custom features at minimal cost, though users are not dependent upon such arrangements.

l Objection: Driven by ideology

l Ý kiến đóng góp: Được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng

PMNM thường được miêu tả là chống lại tư bản, văn hoá đong đếm, và những thứ đại loại như vậy. Những dự án PMNM ban đầu đã phản ánh gốc hàn lâm của chúng – và trong trường hợp của Internet, việc đầu tư ban đầu của Chính phủ Liên bang Mỹ. Sự tự do để đọc mã nguồn hỗ trợ sự hợp tác trong phát triển phần mềm. Giấy phép công cộng chung GNU (GPL), một giấy phép về PMNM thuở ban đầu, đòi hỏi rằng bất cứ ai làm thay đổi mã nguồn của GPL để phân phối lại sẽ làm mọi thay đổi sẵn sàng ch công chúng một cách thực sự. (Theo GPL, nếu phần mềm không được phân phối lại, thì những thay đổi mã nguồn sẽ không phải công bố công khai). Giấy phép không bí mật này ít nhất đã là một phần của một bản tuyên ngôn: sức mạnh chính trị thông qua sự giải phóng các tư tưởng và sự từ chối đốii với bản quyền theo cách truyền thống. Và một vài môn đồ được thúc đẩy bởi tâm trạng vỡ mộng với các công ty phần mềm giàu có, mạnh và lớn – đặc biệt là Microsoft và Oracle. Nhưng những người thực thụ tạo ra phần mềm đã chọn để sử dụng GPL để dẫn dắt việc áp dụng rộng rãi và nhanh chóng hơn các công việc của họ, như với Linux những năm gần đây và Java vào cuối năm 2006. Bây giờ có các công ty phần mềm phân phối các PMNM như phần cơ bản trong mô hình kinh doanh của họ, doanh số và lợi nhuận bắt nguồn từ các dịch vụ bổ sung hơn là bản thân phần mềm. Có những người sử dụng thích PMNM hơn vì những nguyên nhân giáo điều, nhưng hầu hết những người sử dụng có những quan tâm thực dụng hơn: giá thành, tính ổn định, tính mềm dẻo và tính có thể bảo hành bảo trì được.

OSS is frequently portrayed as anti-capitalist, counter-culture, and the like. Early OSS projects reflected their academic origins - and in the case of the Internet, initial funding by the US Federal Government. Freedom to read source code supported collaboration in software development. The GNU General Public Licence (GPL), an early OSS licence, requires that anyone making changes to GPL code for redistribution make all changes available to the public on identical terms. (Under the GPL, if the software is not redistributed, then code changes do not have to be made public.) This no-secrets licence was at least in part a manifesto: political power through liberation of ideas and rejection of traditional copyright. And some adherents were motivated by frustration with large, powerful, and wealthy software companies - particularly Microsoft and Oracle. But actual software creators have chosen to use the GPL to drive more widespread and rapid adoption of their works, as with Linux years ago and Java at the end of 2006. Now there are software companies who deliver OSS as a fundamental part of their business model, deriving revenue and profits f-rom ancillary services rather than the software itself. There remain users who prefer OSS for dogmatic reasons, but most adopters have more pragmatic concerns: cost, stability, flexibility, and maintainability.

l Objection: Legal risks

l Ý kiến đóng góp: Các rủi ro về pháp lý

Vấn đề pháp lý tiềm tàng của việc áp dụng PMNM trong chính phủ đã nổi lên như một mối quan tâm [http://www.e.govt.nz/policy/open-source/open-source-legal]. Các giấy phép PMNM khác nhau về cấu trúc, và chỉ có mã nguồn công cộng là đảm bảo cho người sử dụng các quyền không hạn chế. Một triển khai cụ thể nào đó có thể chứa hàng tá các thành phần phần mềm, và mỗi thành phần có thể có những điều khoản về giấy phép khác nhau. Một vài thành phần của các bên thứ ba có thể được triển khai đối nghịch với các điều khoản của giấy phép, hoặc có thể đơn giản là hoàn toàn không được trao giấy phép cho việc phân tán.

Việc xem xét về mặt pháp lý các giấy phép phần mềm được yêu cầu như một vấn đề về chính sách của Chính phủ, liệu có mở nguồn hay không.

Cũng có những rủi ro về pháp lý với các phần mềm sở hữu độc quyền, liệu bản quyền hay các bằng sáng chế có bị vi phạm hay không.

The potential legal exposure of adoption of OSS by Government has been raised as a concern [http://www.e.govt.nz/policy/open-source/open-source-legal]. OSS licences vary in structure, and only public domain code grants the user unlimited rights. A particular deployment may contain dozens of software components, and each component may have different licence terms. Some third-party components may be deployed contrary to licence terms, or may simply not be licenced for distribution at all.

Legal review of software licences is required as a matter of Government policy, whether open source or not.

There are risks of legal action with proprietary software as well, should copyrights or patents be violated.

Ví dụ, Alcatel/Lucent đã được thưởng 1.25 tỷ USD vào tháng 02/2007 khi một toà án tại Mỹ tuyên Microsoft có trách nhiệm pháp lý trong việc vi phạm các bằng sáng chế của về công nghệ nén MP3. (Nếu thuật toán nén MP3 là PMNM, liệu Microsoft có bị tuyên bị phạt hay không). PMNM làm giảm tính có thể đúng của việc vi phạm bản quyền vì mã nguồn là có thể nhìn thấy được, nhưng nó cũng làm phức tạp hoá việc xem xét pháp lý vì có nhiều các giấy phép tồn tại. (Ví dụ, Linux là một phiên bản của GPL, nhưng Apache là một phiên bản của BSD, và các phần cắm thêm của Apache có thể có những điều khoản giấy phép khác).

Hàng trăm trường hợp vi phạm bản quyền và bằng sáng chế đã được thu thập bởi các công ty phần mềm chống lại nhau về PMNM, trước tiên là dựa trên các khiếu nại rằng bảo vệ sở hữu trí tuệ tạo ra cách không có quyền trong một sản phẩm PMNM. Không có trường hợp nào trong đó có liên quan tới người sử dụng các ứng dụng theo yêu cầu, nên tầm quan trọng của rủi ro pháp lý này đối với Bộ là thấp. Các đối thủ cạnh tranh cũng đã làm ra các thoả thuận pháp lý rõ ràng không kiện nhau để hợp tác được trong các dự án PMNM và tránh các vụ kiện như vậy; ngay cả các đối thủ cạnh tranh như Microsoft và Novell đã làm một thoả thuận như vậy vào cuối năm 2006 để cung cấp việc đảm bảo hỗ trợ cho các khách hàng của họ, rất nhiều trong số đó phụ thuộc vào sự thành công tiếp tục của cả 2 công ty.

For example, Alcatel/Lucent was awarded US$1.25B in February 2007 when a trial in the USA held Microsoft liable for infringing its patents on MP3 compression technology. (Had the MP3 compression algorithm been OSS, Microsoft would not have been held liable for damages.) OSS reduces the likelihood of copyright violation because the source is viewable, but it also complicates legal review because of the variety of licences in play. (For example, Linux is a GPL release, but Apache is a BSD release, and Apache plugins might have yet other licence terms.)

Hundreds of copyright and patent infringement cases have been filed by software companies against one another over OSS, primarily based on claims that protected intellectual property made its way without permission into an OSS product. None of these cases have involved users of the applications in question, so the significance of this legal risk to the Ministry is low. Competitors have also made explicit legal agreements not to sue one another, but to cooperate on OSS projects and avoid such lawsuits; even competitors Microsoft and Novell made such an agreement in late 2006 to provide support assurances to their customers, many of whom depend upon the continued success of both firms.

Objection: Poor user interfaces

l Ý kiến đóng góp: Giao diện người sử dụng nghèo nàn

Về lịch sử, các giao diện người sử dụng khó học và sử dụng. Cộng đồng người sử dụng về hạ tầng và các công cụ phát triển đặt ưu tiên cao cho chức năng nhưng ưu tiên thấp về tính có thể sử dụng được. Nhận thức này được đưa ra cho những người đóng góp, việc bổ sung thêm chức năng mới đã cao hơn so với nhận thức được đưa ra để làm cho giao diện người sử dụng trơn tru hoặc dễ dàng học hơn. Ngoại trừ như trình duyệt web của Netscape ban đầu là các sản phẩm thương mại, sở hữu độc quyền.

Hiện tại, việc quan trọng hơn được đặt vào chất lượng của giao diện người sử dụng vì chúng đưa ra những ưu thế cạnh tranh đối với các sản phẩm với giao diện người sử dụng nghèo nàn. Trình duyệt Firefox đã đạt được thành công mang tính sống còn và một tỷ lệ áp dụng toàn cầu là 18% trong năm 2006 bằng việc đưa ra kinh nghiệm người sử dụng có chất lượng. (Đối thủ cạnh tranh chính của nó, Internet Explorer, không bắt người sử dụng trả gì cả và không đòi hỏi cài đặt, làm cho con số 18% đó rất ấn tượng). Phát tán Linux Ubuntu đã đạt được sự áp dụng nhanh chóng vì nó dễ dàng hơn đối với những người sử dụng có ít kỹ năng về kỹ thuật để cài đặt, học và sử dụng hơn các phát tán khác. Trình soạn thảo đồ hoạ PMNM GIMP đưa ra sức mạnh và sự dễ dàng sử dụng mà nó là cạnh tranh với các giải pháp thay thế thương mại sở hữu độc quyền, cũng như vậy đối với công cụ phát triển đồ hoạ Java Eclipse. Trước đó, việc áp dụng PMNM bị hạn chế đối với những người sử dụng hiểu biết kỹ thuật tinh vi, những người có thể tuỳ biến kinh nghiệm còn nghèo nàn của người sử dụng, nhưng bây giờ PMNM có tới được những người sử dụng mà họ không thể có sự kiên nhẫn như vậy.

Historically, OSS user interfaces have been difficult to learn and use. The user community for infrastructure and development tools placed a high priority on functionality but a low priority on usability. The recognition given to contributors adding new functionality was higher than the recognition given to making the user interface smoother or easier to learn. Exceptions such as the Netscape web browser were initially proprietary, commercial products.

Currently, there is more importance placed on quality user interfaces because they offer competitive advantages over products with poor UI's. The Firefox browser achieved critical success and an 18% global adoption rate in 2006 by offering a quality user experience. (Its main competitor, Internet Explorer, costs the user nothing and requires no installation, making that 18% figure impressive.) The Ubuntu Linux distribution has achieved rapid adoption because it's easier for less technically skilled users to install, learn, and use than other distributions. The OSS graphics editor GIMP offers power and ease of use that are competitive with proprietary commercial al-ternatives, likewise for the graphical Java development tool Eclipse. Previously, OSS adoption was limited to technically sophisticated users who would tolerate a poor user experience, but now OSS can appeal to users who have no such patience.

Dịch tài liệu: Lê Trung Nghĩa

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập143
  • Máy chủ tìm kiếm9
  • Khách viếng thăm134
  • Hôm nay9,341
  • Tháng hiện tại529,524
  • Tổng lượt truy cập36,588,117
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây