KIẾN TRÚC PHẦN MỀM THAM CHIẾU TRONG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ

Thứ sáu - 13/04/2012 07:26
Cho tới bây giờ,Việt Nam vẫn chưa có những tài liệu chính thức vềChuẩn và Kiến trúc cho cácứng dụng Chính phủ điện tử (CPĐT) ở mức Chính phủ- Quốc gia, một trong những yêu cầu sống còn cho việcxây dựng các ứng dụng - dịch vụ CPĐT thành công đốivới một quốc gia, vì nó chính là Luậtvà Quy hoạch trong lĩnh vực CPĐT. Không có nó,việc xây dựng các ứng dụng - dịch vụ CPĐT sẽ khôngthể thành công.
Bài viết này sẽđề cập tới một khía cạnh quan trọng trong tổng thểmột kiến trúc CPĐT: Kiến trúc phầnmềm tham chiếu. Kiến trúcphần mềm tham chiếu là một nội dung quan trọngtrong quan điểm ứng dụng, một trong những quan điểm cóliên quan tới khía cạnh kỹ thuật công nghệ trong toànbộ Kiến trúc CPĐT. Các quan điểm khác và tổng thểkiến trúc CPĐT sẽ không được đề cập tới ở đây,hy vọng sẽ được đề cập tới trong những bài kháctiếp sau.

XÂYDỰNG PHẦN MỀM THEO CÁCH TRUYỀN THỐNG

Từtrước tới nay, khi xây dựng một phần mềm, ngoài việcchúng ta phải tuân thủ các bước khảo sát, phân tích,thiết kế, lập trình, kiểm thử, triển khai... nhằm đápứng các yêu cầu chức năng nghiệp vụ của cơ quan, tổchức người sử dụng thì chúng ta không mấy khi phảichú tâm tới các thành phần khác cùng nằm trong hệ thốngthông tin.
Mộtví dụ dễ thấy nhất là khi làm theo cách này, trong mọiứng dụng phần mềm đều phải có module quản trị ngườisử dụng với khả năng tạo mới, cập nhật, sửa, xóacác thông tin liên quan tới người (nhóm người) sử dụng.Đối với người sử dụng thì để có thể sử dụngđược ứng dụng phần mềm, họ sẽ phải đăng nhậpvào chương trình thông qua một tài khoản sử dụng(account) mà thông thường được xác định bởi một cặpgiá trị về tên sử dụng (user name) và mật khẩu(password).
Kếtquả là, với một người sử dụng, khi số lượng cácứng dụng phần mềm tăng lên thì số lượng các tàikhoản cũng tăng lên tương ứng. Chỉ có điều các giátrị về tên sử dụng và mật khẩu đối với chínhngười sử dụng này nhưng trong các ứng dụng khác nhaulại có thể sẽ rất khác nhau. Điều này là khó có thểchấp nhận được. Sẽ tồi tệ hơn nữa, nếu các ứngdụng như vậy lại phải triển khai các chữ ký điện tửđi kèm với việc sử dụng các thẻ an ninh với các cặpkhóa cá nhân và công khai dựa vào hạ tầng khóa côngkhai PKI (Public Key Infrastructure). Vì nhiều ứng dụng khácnhau với các cặp tên và mật khẩu có thể khác nhau đócó thể sẽ làm gia tăng số lượng các thẻ an ninh mộtcách không đáng có, thậm chí có thể tới mức khôngchịu nổi, khi ứng với mỗi ứng dụng CPĐT phải có 1thẻ an ninh riêng biệt đi kèm, điều mà không một ngườisử dụng hay nhà quản lý nào chấp nhận được.
Câuhỏi đặt ra là: khi xây dựng các ứng dụng - dịch vụphần mềm cho CPĐT, chúng ta phải chú tâm tới các thànhphần nào khác của hệ thống? Kiếntrúc phần mềm tham chiếu có ý nghĩa gì?
GIỚITHIỆU KIẾN TRÚC PHẦN MỀM THAM CHIẾU
Hình1 cho ta thấy kiến trúc phần mềmtham chiếu với các thành phần khi xây dựng cácứng dụng và dịch vụ phần mềm cho CPĐT. Ban đầu, kiếntrúc này bao gồm 2 thành phần hạ tầng, 5 thành phần cơbản, 1 ứng dụng đặc thù tượng trưng cho tất cả cácứng dụng nghiệp vụ được xây dựng cho các mục đíchCPĐT, 1 dịch vụ “một cho tất cả” tượng trưng chotất cả dịch vụ dùng chung được xây dựng cho các mụcđích CPĐT và một số thành phần khác.
Cácthành phần hạ tầng là các thành phần mà toàn bộ hệthống dựa vào chúng khi vận hành. Vì vậy, chúng lànhững thành phần được sử dụng và sử dụng lại liêntục không ngưng nghỉ trong suốt toàn bộ sự tồn tạicủa toàn bộ hệ thống CPĐT.
Cácthành phần cơ bản là các thành phần được sử dụngvà sử dụng lại thường xuyên, liên tục cho vài, nhiềuhoặc tất cả các ứng dụng - dịch vụ CPĐT của nhiềuhoặc tất cả các cơ quan hành chính nhà nước trong (các)hệ thống CPĐT. Khác với các thành phần hạ tầng đượcsử dụng không ngưng nghỉ, thì các thành phần cơ bảncó thể có tuần suất sử dụng ít hay nhiều là khácnhau, phụ thuộc vào sự cần thiết, chức năng và nhữngvấn đề khác đối với các nhóm thủ tục hành chínhvà/hoặc nhóm người sử dụng khác nhau. Ví dụ, đốivới các nhóm thủ tục hành chính chỉ liên quan tới việctrao đổi và tìm kiếm thông tin thì sẽ khác với cácnhóm thủ tục hành chính có liên quan tới việc thanh toánphí dịch vụ của các thủ tục hành chính. Nhóm trao đổivà tìm kiếm thông tin sẽ không sử dụng một số thànhphần cơ bản mà nhóm thanh toán phí dịch vụ phải sửdụng, ví dụ, như thành phần cơ bản “Thanh toán trựctuyến” hoặc một vài module nhất định nào đó củathành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” như được trìnhbày ở đây.
Hình1: Kiến trúc phần mềm tham chiếu
Cácthành phần mà mỗi một ứng dụng và dịch vụ phần mềmcho CPĐT khi xây dựng phải được tính tới ngay từ đầubao gồm:
  1. Thành phần hạ tầng “Mạng hành chính của Chính phủ
Thànhphần này kết nối tất cả các cơ quan hành chính nhànước, ở các mức hành chính khác nhau như trung ương -tỉnh - bộ - ngành, thành một thể thống nhất và dù cácdịch vụ của hạ tầng này không là đặc thù đối vớicác ứng dụng - dịch vụ CPĐT cụ thể nào, chúng vẫnđóng một vai trò chính trong việc cung cấp giao tiếptruyền thông điện tử giữa các cơ quan nhà nước vớinhau. Theo quan điểm về kiến trúc CPĐT, sẽ khôngthể có việc một cơ quan nhà nước xây dựng một hệthống mạng CPĐT mà lại độc lập và/hoặc không nằmtrong tổng thể của thành phần hạ tầng “Mạnghành chính của Chính phủ”ngay từ lúc thiết kế.
  1. Thành phần hạ tầng “Dịch vụ thư mục”.
Thành phần nàythường sử dụng tiêu chuẩn LDAP (Lightweight DirectoryAccess Protocol) để quản lý các thông tin về người sửdụng và các thông tin liên quan khác trong toàn bộ hệthống. Thành phần này chính là nền tảng của hệ thốngđăng nhập duy nhất (Single Sign On) đối với tất cả cácthành phần khác và các ứng dụng - dịch vụ trong hệthống thông tin CPĐT.
  1. Thành phần cơ bản “Cổng điện tử” (Portal).
Thành phần nàysử dụng để làm môi trường cho việc tích hợp vớicác qui trình nghiệp vụ, với người sử dụng và đặcbiệt là với các thông tin từ các nguồn thông tin khácnhau, với các định dạng dạng thông khác nhau với cáccông nghệ xây dựng khác nhau. Ví dụ để tích hợp cácthông tin phi cấu trúc từ các trang thông tin điện tử(website), từ các ứng dụng và dịch vụ phần mềm đượcxây dựng trên bất cứ nền tảng nào – bất kể làWindows hay GNU/Linux, nguồn mở hay nguồn đóng, sử dụngbất cứ hệ quản trị cơ sở dữ liệu nào – bất kểlà MS SQL Server, Oracle, DB2, Informix, Sybase, MySQL, PostgreSQL..., bằng bất cứ ngôn ngữ lập trình nào – bất kểlà Java, Visual Basic, Perl, PHP...
Thành phần nàychính là nền tảng để người sử dụng có thể truy cậpcác thông tin, dịch vụ của các cơ quan khác nhau thôngqua một địa chỉ duy nhất trên Internet.
  1. Thành phần cơ bản “Hệ thống quản trị nội dung” hay CMS (Content Management System).
Thành phần nàycó nhiệm vụ chính là cung cấp các thông tin đã đượctiêu chuẩn hóa từ các ứng dụng, dịch vụ phần mềmlên thành phần nền tảng “Cổngđiện tử” thông qua bộ công cụ quản lý cácbước xử lý thông tin từ việc tìm kiếm, thu thập, xem,kiểm duyệt, xuất bản thông tin để mọi người có thểsử dụng được trên Internet. Sẽ là tốt cho một hệthống CPĐT, nếu các ứng dụng đặc thù được xây dựngdựa vào phần mềm gốc ban đầu là một CMSđể tận dụng được mọi chức năng sẵn có một CMS.Trường hợp không thực hiện được việc này, thì ứngdụng đặc thù cho CPĐT sẽ phải tích hợp các tính năngcần thiết của CMS vàotrong ứng dụng để có thể làm việc được với thànhphần nền tảng “Cổng điện tử”một cách thích hợp.
  1. Thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu (Data security)
Có thể có nhiềucách khác nhau để đảm bảo an ninh dữ liệu, nhưng thôngthường thì người ta sử dụng hạ tầng cơ sở khóacông khai PKI (Public key Infrastructure) và thẻ thông minh(Smart card) cùng với các đầu đọc thẻ để làm nhữngcông cụ cho việc xác thực người sử dụng và mã hóa –giải mã đối với nội dung thông tin được truyền đitrên Internet. Điều này là hết sức quan trọng trênInternet để trả lời cho 2 câu hỏi: Ai là ai thực sựtrên mạng và liệu thông tin ta truyền qua mạng từ máytính này tới máy tính khác có còn giữ được tính toànvẹn dữ liệu hay không? (có bị ai đó can thiệp và sửađổi trên đường truyền hay không?).
  1. Thành phần cơ bản “Máy chủ mẫu biểu” (Form server)
Thành phần nàycung cấp cho người sử dụng trên Internet các mẫu biểuhành chính của các cơ quan hành chính các cấp. Thôngthường việc triển khai thành phần này được chia làm 2giai đoạn. Giai đoạn đầu cung cấp các mẫu biểu điệntử dạng có thể in ra được để mọi người điềnthông tin vào đó như đối với một mẫu biểu thôngthường bằng giấy rồi được đưa vào qui trình xử lýnhư các phương pháp truyền thống tại các cơ quan hànhchính. Trong giai đoạn tiếp sau, các mẫu biểu này sẽđược thiết kế thành các mẫu biểu điện tử có khảnăng tương tác để mọi người có thể điền trực tiếpcác thông tin cần thiết một cách trực tuyến trênInternet rồi các thông tin đó được lưu giữ trong các cơsở dữ liệu và được tiếp tục xử lý trong hệ thốngmạng CPĐT của các cơ quan hành chính.
  1. Thành phần cơ bản “Thanh toán điện tử” (e-payment)
Thànhphần này thường kết hợp với thành phần “Anninh dữ liệu” làm cơ sở để tạo nên hệthống thanh toán trực tuyến trên Internet một cách an toànthông qua các cổng thanh toán (Payment gateway) phục vụ chocác mục tiêu của CPĐT.
  1. Ứng dụng đặc thù
Đâylà thành phần biểu tượng cho một ứng dụng nghiệp vụđược xây dựng không theo cách thức truyền thống, màtheo cách thức để trở thành một ứng dụng nghiệp vụkhông chỉ hoàn thành các qui trình thủ tục nghiệp vụcủa (các) cơ quan hành chính nhất định nào đó, mà cònđể sử dụng như một ứng dụng CPĐT trong tổng thểkiến trúc phần mềm tham chiếu.Vì mang tính chất biểu tượng, nên ứng dụng đặc thùnày có thể là một ứng dụng xuất nhập khẩu độngthực vật, xin phép thành lập doanh nghiệp, đăng ký kếthôn, xây dựng nhà hay bất kỳ ứng dụng nghiệp vụ nàokhác, được xây dựng đặc thù trong môi trường CPĐT.
  1. Dịch vụ “Một cho tất cả” (dịch vụ OFA)
Đâylà thành phần biểu tượng cho một dịch vụ có thểđược xây dựng và sử dụng trong một vài, nhiềuvà/hoặc tất cả cơ quan hành chính nhà nước trong môitrường CPĐT, có tính tới - tham chiếu tới những thànhphần hạ tầng và cơ bản khác trong kiếntrúc phần mềm tham chiếu. Chúng được xây dựngtrên cơ sở tích hợp với các thành phần tích hợp của(các) ứng dụng đặc thù để có thể sử dụng - thamchiếu được tới tất cả các thành phần hạ tầngvà/hoặc cơ bản trong kiến trúc phầnmềm tham chiếu.
  1. Hệ thống đã có từ trước và hệ thống ERP
Đâylà các hệ thống thường do lịch sử để lại, đã đượcxây dựng và hoạt động từ trước khi có những sángkiến CPĐT, trước khi xây dựng các ứng dụng và dịchvụ CPĐT. Chúng thường phải trải qua một quá trìnhchuyển đổi và/hoặc xử lý để có thể đáp ứng đượccác yêu cầu mới mà các ứng dụng - dịch vụ CPĐT đặtra.
  1. Máy trạm
Thànhphần này đặc trưng cho các thiết bị mà người sửdụng dùng để truy cập tới các thông tin đầu ra đượctrình bày từ các ứng dụng - dịch vụ CPĐT được tấtcả các cơ quan hành chính nhà nước cung cấp có chủđích cho những người sử dụng đầu cuối. Các thiếtbị đó có thể là trình duyệt web, các thiết bị diđộng, máy tính bảng hay bất kỳ thiết bị truy cậpthông tin - dữ liệu CPĐT nào khác.
  1. Ứng dụng bên ngoài
Làcác ứng dụng của các hệ thống thông tin khác nằmngoài hệ thống CPĐT của một quốc gia nhưng cũng cónhững tương tác với hệ thống CPĐT của một quốc giathông qua giao diện ứng dụng của (các) ứng dụng đặcthù.
Cầnlưu ý rằng thành phần cơ bản “Cổngđiện tử” và thành phần cơ bản “Hệthống quản lý nội dung” là 2 thành phần cơbản khác nhau, riêng biệt nhau với những chức năng hoàntoàn khác nhau chứ không phải là ở dạng “2 trong 1”,thậm chí là ở dạng “3 trong 1” khi bao gồm cả cácứng dụng nghiệp vụ được xây dựng trực tiếp trongphần mềm cổng, với các dữ liệu của (các) phần mềmnghiệp vụ được lưu trữ trực tiếp cùng với cơ sởdữ liệu của phần mềm cổng, như chúng ta vẫn thườngthấy đối với nhiều Cổng điện tử tại Việt Nam hiệnnay. Bàn về những ưu - nhược điểm khi xây dựng cổngđiện tử ở dạng “2 trong 1” hoặc “3 trong 1” khôngđược đề cập tới trong bài viết này.
Trênquan điểm về tính trung lập về công nghệ trong các ứngdụng - dịch vụ CPĐT, các thành phần hạ tầng và cơbản cũng như các ứng dụng đặc thù và dịch vụ “mộtcho tất cả” đều có thể sử dụng các công nghệkhông phụ thuộc nền tảng, không phụ thuộc vào nhàcung cấp để xây dựng. Mà để có được như vậy, thìchúng cần phải được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩnmở. Các nội dung này sẽ không được đề cập tớitrong bài viết này.
Cùngvới sự phát triển CPĐT, kiến trúcphần mềm tham chiếu cũng sẽ phát triển và kéotheo sự phát triển và biến hóa của (các) thành phần hạtầng và cơ bản được nêu ở trên. Tất cả nhữngthành phần hạ tầng và cơ bản như được nêu ở trênđều được sử dụng nhưng có thể với những tên gọikhác, với sự kết hợp khác mà không được đề cậptới trong bài viết này.
VÍDỤ VỀ MỘT ỨNG DỤNG - DỊCH VỤ TRỰC TUYẾN VỚI VÀITHÀNH PHẦN CƠ BẢN
Dướiđây là một ví dụ về cách mà các thành phần cơ bảncó thể được tích hợp trong các qui trình của một ứngdụng - dịch vụ trực tuyến. Ví dụ này có liên quan tớimột phương pháp đặc thù dựa vào một cơ sở dữ liệuđặc thù, mà cụ thể là qui trình thủ tục xin giấyphép xuất nhập khẩu động thực vật tại Đức. Tấtcả các phần có liên quan trong qui trình ở phía các cơquan hành chính đều có sự truy cập tới cơ sở dữ liệunày. Những người đệ trình xin giấy phép trong trườnghợp này là các công ty khởi xướng qui trình đề nghịđều có khả năng mua và sử dụng hạ tầng khóa côngkhai PKI (Public Key Infrastructure), sử dụng thẻ thông minhvà các đầu đọc thẻ để hỗ trợ thực hiện việc kýbằng các chữ ký số. Trong ví dụ này, các công ty phảitrả phí khi đề nghị được phê chuẩn. Thủ tục củađề nghị sẽ kết thúc khi hóa đơn thanh toán được ghilại trong cơ sở dữ liệu đặc thù. Tuy nhiên, các hoạtđộng được phê chuẩn sẽ được triển khai mà khôngcó Internet, mà là với các cán bộ hành chính có sử dụngcơ sở dữ liệu đặc thù.
Tấtcả các thành phần cơ bản đều được sử dụng đểhỗ trợ cho thủ tục đề nghị này. 4 trong số 5 thànhphần cơ bản được tích hợp trực tiếp vào trong cácqui trình, trong đó thành phần cơ bản thứ 5 - “Cổngđiện tử” - cung cấp sự truy cập tớidịch vụ trực tuyến đó. Thành phần cơ bản “Hệthống quản trị nội dung” (CMS)làm giao diện web của dịch vụ trực tuyến với nhữnggiải thích, các thông tin cơ bản và các con số thốngkê. Hơn nữa, CMS còn lưutrữ các dữ liệu của đề nghị.
Thànhphần cơ bản “Máychủ mẫu biểu” tạo ra mẫu biểu củađề nghị và hỗ trợ người đề nghị khi hoàn tấtviệc nhập các thông tin cần thiết vào mẫu biểu đó.Dữ liệu của người sử dụng (người đề nghị) đượcthành phần CMS lưu trữ vàđược sử dụng để nhập các dữ liệu mặc định vàomẫu biểu. Thành phần cơ bản “Anninh dữ liệu” (Bưu điện ảo) được sửdụng cho việc truyền một cách có an ninh các dữ liệucá nhân này, cho việc ký mẫu biểu hoàn chỉnh và choviệc truyền có an ninh các dữ liệu của mẫu biểu. Cácthư viện của thành phần cơ bản “Anninh dữ liệu” cũng được sử dụng đểđảm bảo cho các giao tiếp truyền thông có an ninh khinhững khẳng định việc nhận và các công bố về chiphí được gửi tới những người sử dụng qua thư điệntử.
Thànhphần cơ bản “Thanhtoán điện tử” được sử dụng đểsinh ra một khoản ghi nợ tại Văn phòng Kế toán củaChính phủ khi đề nghị được phê chuẩn. Người đềnghi thanh toán hóa đơn bằng chuyển khoản qua ngân hàng.Thông tin có liên quan tới các khoản ghi nợ đã đượcthiết lập có thể tìm kiếm để sử dụng từ hệ thốngthanh toán điện tử.
Hình2: Qui trình thủ tục có sử dụng vài thành phần cơ bản
Cácbước xử lý được đánh số trong hình là như sau:
  1. Dữ liệu của người sử dụng trong cơ sở dữ liệu đặc thù được gửi tới thành phần cơ bản “Hệ thống quản trị nội dung”, sao cho những người đề nghị không phải gõ lại các dữ liệu cá nhân hoàn chỉnh của họ sau khi đăng nhập vào mỗi lần họ gửi đi một đề nghị.
  2. Người đề nghị đăng nhập vào website của qui trình đề nghị, với chữ ký số đang sử dụng cho việc xác thực.
  3. Việc truyền các dữ liệu đăng nhập từ máy trạm - web của người đề nghị tới máy chủ web của qui trình đề nghị (sử dụng thành phần “An ninh dữ liệu” để kiểm tra hợp lệ chữ ký).
  4. Truyền xác thực người sử dụng tới thành phần cơ bản “Hệ thống quản trị nội dung”.
  5. Kích hoạt thành phần cơ bản “Máy chủ mẫu biểu” bằng “Hệ thống quản trị nội dung”; truyền tất cả các dữ liệu của người sử dụng cần thiết để hoàn tất trước những trường nhất định của mẫu biểu.
  6. Truyền mẫu biểu điện tử với các dữ liệu người sử dụng được mã hóa để hoàn tất trước các trường riêng (sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” hoặc HTTPS cho việc mã hóa).
  7. Người sử dụng hoàn tất mẫu biểu đề nghị và bổ sung thêm các dữ liệu được quét vào như các tệp đính kèm với mẫu biểu đó; mẫu biểu hoàn thành, cùng với các tệp gắn kèm, được người sử dụng ký điện tử.
  8. Truyền có mã hóa mẫu biểu điện tử tới chức năng “thư nội bộ” của qui trình đề nghị (sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” bằng phần mềm của “Máy chủ mẫu biểu”)
  9. Giải mã dữ liệu của mẫu biểu và kiểm tra tính hợp lệ của chữ ký (sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu”)
  10. Truyền khẳng định một cách tự động việc nhận các dữ liệu mẫu biểu đối với người đề nghị qua thư điện tử; sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” để ký thư điện tử, mã hóa nếu cần.
  11. Phân công vụ việc cho một cán bộ thụ lý hồ sơ.
  12. Cán bộ giải quyết tiếp vụ việc bằng việc kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ thông tin của người sử dụng và nhập đề nghị vào cơ sở dữ liệu đặc thù.
  13. Hai cán bộ phê chuẩn đề nghị thông qua sự truy cập tới cơ sở dữ liệu đặc thù.
  14. Một cán bộ khác sẽ xử lý tiếp theo vụ việc
  15. Cán bộ tạo một công bố chi phí điện tử và gửi nó cho người đề nghị; sử dụng thành phần cơ bản “An ninh dữ liệu” để ký và mã hóa thư điện tử.
  16. Cán bộ sử dụng thành phần cơ bản phù hợp để kích hoạt thủ tục thanh toán điện tử.
  17. Mỗi ngày một lần, các khoản ghi nợ được gửi tới hệ thống giám sát thanh toán của Cơ quan Dịch vụ Kế toán và Ngân sách.
  18. Ngay khi người đề xuất đã thanh toán hóa đơn, hệ thống giám sát thanh toán sẽ thông báo cho máy chủ thanh toán điện tử về việc đó.
  19. Cán bộ tìm kiếm sử dụng thông tin thanh toán mới nhất từ hệ thống thanh toán điện tử.
  20. Các thanh toán được ghi lại vào cơ sở dữ liệu đặc thù ngay lúc qui trình đề nghị được hoàn thành.
Nếumột đề nghị bị từ chối, thì thủ tục có thể kếtthúc với bước 15 bằng việc gửi một công bố chi phítương ứng cho người đề nghị.
MỘTSỐ TÓM TẮT CƠ BẢN
  1. Việc xây dựng một phần mềm ứng dụng thông thường, ví dụ như trong trường hợp cụ thể này, như quản lý giấy phép xuất nhập khẩu động thực vật, chắc chắn sẽ khác với việc xây dựng một phần mềm ứng dụng đặc thù cũng về quản lý giấy phép xuất nhập khẩu động thực vật nhưng để sử dụng trong hệ thống CPĐT. Với CPĐT, ứng dụng đó không chỉ đứng riêng lẻ một mình, mà còn phải tham chiếu cùng một lúc tới nhiều ứng dụng - thành phần khác nữa trong tổng thể của cả hệ thống, mà ở ví dụ cụ thể ở đây, là 5 thành phần cơ bản của kiến trúc phần mềm tham chiếu cho các ứng dụng CPĐT.
  2. Việc yêu cầu chỉ ra kiến trúc của chỉ một ứng dụng trong quá trình xây dựng ứng dụng đó mà không có tham chiếu tới bất kỳ thành phần cơ bản hay hạ tầng nào nào khác, là không phải cách để xây dựng một ứng dụng CPĐT. Điều này sẽ giống hệt như việc chỉ ra kiến trúc của ứng dụng đặc thù và/hoặc kiến trúc của một dịch vụ “Một trong tất cả” trong tổng thể kiến trúc phần mềm tham chiếu và là chưa đủ trong việc xây dựng một ứng dụng - dịch vụ nằm trong tổng thể kiến trúc phần mềm tham chiếu. Đáng tiếc, nó lại là những gì mà Việt Nam chúng ta đang làm mỗi khi xây dựng một ứng dụng mới, kể cả cơ sở dữ liệu quốc gia.
  3. Những thành phần hạ tầng và cơ bản là rất cần thiết khi xây dựng CPĐT, vì chúng có khả năng được sử dụng lặp đi lặp lại với những thủ tục, dịch vụ và ứng dụng đặc thù khác nhau. Trong trường hợp cụ thể này là xuất nhập khẩu động thực vật, nhưng trong trường hợp khác có thể là đơn xin phép thành lập doanh nghiệp, đăng ký kết hôn, xây dựng nhà hay bất kỳ qui trình thủ tục - dịch vụ nào khác với những bước qui trình và chức năng tương tự. Điều này giải thích vì sao người ta nói: Kiến trúc như một bản qui hoạch đô thị, nơi mà chúng ta đưa ra các tài nguyên và sắp xếp các tài nguyên đó theo một qui cách nào đó, với các luật (các tiêu chuẩn) được chọn để có thể sử dụng và sử dụng lại các tài nguyên đó một cách có an ninh và hiệu quả nhất. Trong trường hợp cụ thể ở đây, việc sắp xếp đó là theo kiến trúc phần mềm tham chiếu, nằm trong “Quan điểm ứng dụng” của kiến trúc tổng thể CPĐT theo “Mô hình Tham chiếu Xử lý Phân tán Mở (RM-ODP)” mà bản thân RM-ODP (Reference Model for Open Distributed Processing) là tuân theo tiêu chuẩn ISO/IEC 10746-3:1996.
  4. Khi không có một kiến trúc chung và nhất quán ở mức Chính phủ như của Việt Nam hiện nay, thì việc xây dựng các ứng dụng nghiệp vụ, kể cả trong trường hợp có các cổng điện tử, là không dựa vào quan điểm hệ thống CPĐT, không có tham chiếu nào tới các ứng dụng và/hoặc thành phần khác, những thành phần hạ tầng và cơ bản, trong toàn bộ hệ thống, sẽ khó có thể gọi là xây dựng các ứng dụng - dịch vụ cho CPĐT được, và dễ thấy là hầu như không có ứng dụng phần mềm nào ở dạng các thành phần có thể sử dụng và sử dụng lại được một cách có tính toán trước, dễ gây ra sự tùy hứng, vừa thừa vừa thiếu, chồng lấn lên nhau, gây lãng phí lớn các tài nguyên.
  5. Các ứng dụng - dịch vụ CPĐT cần tới các thành phần hạ tầng và cơ bản trong kiến trúc phần mềm tham chiếu để dựa vào, đồng nghĩa với việc phải đặt ra vấn đề xây dựng các thành phần hạ tầng và cơ bản đó trước, càng sớm càng tốt, để làm nền móng cho các ứng dụng CPĐT khác dựa vào chúng khi được xây dựng. Tới lượt chúng, để có khả năng xây dựng các thành phần hạ tầng và cơ bản đó, thì chúng ta cần phải xây dựng được kiến trúc cho các ứng dụng CPĐT ở cấp Chính phủ. Nếu không, chúng ta sẽ không thể có CPĐT.
TrầnLê
Bàiđăng trên tạp chí Tin học và Đời sống số tháng04/2012, trang 46-50.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập248
  • Máy chủ tìm kiếm8
  • Khách viếng thăm240
  • Hôm nay41,410
  • Tháng hiện tại443,914
  • Tổng lượt truy cập36,502,507
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây