Mọi thứ bạn luôn muốn biết về FRAND (nhưng không biết hỏi ai)

Thứ sáu - 02/03/2012 06:42

EverythingYou Always Wanted to Know About FRAND (But didn’t know who to ask)

Tuesday,February 21 2012 @ 07:48 AM PST

Contributedby: AndyUpdegrove

Theo:http://www.consortiuminfo.org/standardsblog/article.php?story=20120221074826486

Bàiđược đưa lên Internet ngày: 21/02/2012

Lờingười dịch: Có lẽ bạn nên đọc hết bài này, vìtrong nó có những điều được gọi là chấn động màcó thể bạn không bao giờ nghĩ nó có thể như vậy, nhưviệc “Microsoft tuần trước nói rằng hãng có thể sẽkhông đòi quyền lợi đối với các quyền phí bản quyềnkhông FRAND trong những yêu sách cơ bản chống lại nhữngngười triển khai các tiêu chuẩn, thậm chí nơi mà nó đãkhông giúp phát triển những tiêu chuẩn đó, và vì thếkhông có bổn phận để hạn chế những yêu cầu củachúng. Đó từng làmột tuyên bố rất mạnh, và là sự thay đổi hoàn toànchính sách”. Cònvề các chuẩn mở nữa chứ: “Và giống hệt như nguồnmở, nếu bạn hànhđộng chống lại một người sử dụng các tiêu chuẩnmở, thì bạn sẽ ngày càng được coi như đang hành độngchống lại tất cả những người sử dụng các tiêuchuẩn mở - nói cách khác, chống lại tất cả nhữngngười sử dụng công nghệ.Nếu bạn quyết định cứ làm như vậy, thì bạn tốtnhất hãy chuẩn bị để trả lời cho khán thính phòngrộng lớn hơn đó”. Người viết bài này, Andy Updegrove,là một chuyên gia siêu hạng về các tiêu chuẩn về CNTT.

Từđồng nghĩa với “FRAND” rất là nhiều trong các thôngtin ngày nay, và với lý do tốt. Nhưng cuộc chiến đểkiểm soát, hoặc ít nhất chia sẻ tiền thưởng, của thịtrường di động đã tạo động lực cho những ngườikhổng lồ công nghệ như Google, Samsung, Microsoft và Applemang tới mọi công cụ và vũ khí lên phía trước đểtránh bị tụt lại hút bụi ở phía sau. Vì thế cườngđộ là sự cạnh tranh mà không chỉ các tiêu chuẩn, màcác chi tiết mịn hơn có liên quan tới việc cam kết vềcác bằng sáng chế để tạo thuận lợi cho sự triểnkhai các tiêu chuẩn, đã trở thành chủ đề của các đầuđề lớn trên báo chí về công nghệ.

Mụctiêu của bài này không phải để nêu về việc giao tranhhiện đang diễn ra, mà để lột tả và giải thích nhiềulớp sắc thái và cơ hội chiến thuật nằm bên dướikhái niệm tưởng như đơn giản của “FRAND”. Có baonhiêu lớp? Hãy chỉ nói rằng bạn có thể không nhớ đếmđược bao nhiêu trước khi chúng tôi đề cập tới mọithứ mà bạn cần biết những ý nghĩa nằm bên ngoàinhững gì thực sự đang diễn ra đằng sau sân khấu.

Đưara sự phức tạp của chủ đề này, tôi sẽ trở lạimột thiết bị mà tôi đã chọn từ Stephen O'Grady tạiRedmonk - cuộc tự phỏng vấn - vì tôi đã thấy nó làcách rất hữu dụng để đề cập tới tư liệu mà khôngchỉ phức tạp, mà còn cần phải được liên quan tớinhững sự kiện trong các tin tức. Chúng ta bắt đầu nhé.

Hỏi(H): “FRAND” có nghĩa là gì?

Đáp(Đ): FRAND là viết tắt của “công bằng, hợp lý vàkhông phân biệt đối xử” (fair, reasonable andnon-discriminatory), và phải được kèm theo nhiều từ ngữhơn để hoàn tất được ý định (thường thì, nhữngtừ đó là “những điều khoản cấp phép”). Đây làmột mệnh đề có ô che mà không chỉ định ra nhữngđiều khoản cụ thể nào. Thay vào đó, nó thể hiện kếtquả mấu chốt mà một giấy phép phải tới.

Theacronym “FRAND” is very much in the news today, and with goodreason. The battle to control, or at least share in the bounty,of the mobile marketplace has motivated technology leviathans likeGoogle, Samsung, Microsoft and Apple to bring every tool and weaponto the fore in order to avoid being left in the dust. So intenseis the competition that not only standards, but the finer detailsrelating to the pledging of patents to facilitate the implementationof standards, have become the subject of headlines in the technologypress.

Thepurpose of this blog post is not to report on the skirmishing that isstill ongoing, but to peel off and explain the multiple layers ofnuance and tactical opportunity that underlie the seemingly simpleconcept of “FRAND.” How many layers? Let’s just saythat you may lose count before we cover everything you need to knowto make sense out of what is really going on behind the scenes.

Giventhe complexity of the subject, I’ll revert to a device I picked upf-rom Stephen O’Grady at Redmonk- the self-interview – because I’ve found it to be a very usefulway to cover material that is not only complicated, but which alsoneeds to be related to specific events in the news. So here wego.

Q: Whatdoes “FRAND” mean?

A: FRANDstands for “fair, reasonable and non-discriminatory,” and must befollowed by more words to complete the intention (usually, thosewords are “licensing terms”). It’s an umbrella phrase thatdoesn’t designate specific terms. Instead, it expresses thebottom line result that a license must add up to. 

H:Liệu “RAND” có nghĩa y hệt không?

Đ:Vâng. FRAND là khái niệm chuẩn mực tại châu Âu, trongkhi RAND chiếm ưu thế tại Mỹ, nơi mà chúng ta thườngthiếu kiên nhẫn một chút. Và câu hỏi đâu là sự khácbiệt giữa “công bằng” và “hợp lý” nhỉ?

H:Trong ngữ cảnh nào những khái niệm đó được sử dụng?

Đ:Các tổ chức thiết lập các tiêu chuẩn (SSOs) yêu cầunhững ai giúp tạo ra một tiêu chuẩn (và đôi khi tất cảcác thành viên của SSO) nói ra trước khi một tiêu chuẩnđược phê chuẩn để triển khai liệu họ có bất kỳyêu sách nào về bằng sáng chế mà có thể bị ai đótriển khai tiêu chuẩn đó vi phạm một cách không thểtránh được hay không (như những yêu sách được thamchiếu như là những Yêu sách “Cần thiết” hoặc “Cơbản” trong các chính sách về quyền sở hữu trí tuệ(IPR)). Nếu một thành viên có, hoặc có thể có nhữngyêu sách như vậy, thì họ được yêu cầu phải nói ranhững gì trong 3 sự lựa chọn đó nó sẽ thực hiệntrong sự kết nối với những yêu sách đó (liệu tất cả3 lựa chọn thay thế có được chấp nhận dựa vào SSOhay không):

  • họ sẽ cấp phép cho những Yêu sách Cần thiết của họ mà không có chuyện lấy tiền, và nếu không thì những điều khoản của FRAND, đối với những người triển khai tiêu chuẩn đó (họ cũng có thể đồng ý đơn giản không đòi quyền lợi cho những Yêu sách Cần thiết của họ chống lại những người triển khai).

  • họ thực hiện cam kết y hệt, nhưng giữ lại quyền lấy phí bản quyền hoặc phí khác, mà phải là hợp lý về con số.

  • họ từ chối cấp phép cho một hoặc nhiều Yêu sách Cần thiết, và xác định những yêu sách đó, và những phần của tiêu chuẩn phác thảo mà có thể gây ra sự vi phạm.

Nhữngyêu cầu thêm trong lựa chọn thay thế thứ 3 là hoàn toànquan trọng, vì chúng cho phép nhóm làm việc cố gắng và“thiết kế xoay quanh” những yêu sách bị từ chối.Một số SSO yêu cầu những người chọn lựa chọn thaythế số 2 phải xác định các yêu sách, và phần củatiêu chuẩn bị ảnh hưởng, cũng như, sao cho các thànhviên nhóm làm việc có thể quyết định liệu có cốgắng để thiết kế cách của họ xung quanh những yêusách để tránh khả năng những người triển khai có thểphải trả phí bản quyền.

H:Đủ công bằng. Nhưng nhưng điều này thực sự có nghĩagì?

Đ:À, bây giờ có một câu hỏi thú vị. Trước hết, hãynhìn một chút sát vào những gì các từ cấu t hành trongnhững từ đồng nghĩa có nghĩa gì ở mức cao.

Q: Does“RAND” mean the same thing?

A: Yes. FRANDis the normative term in Europe, while RAND predominates in the U.S.,whe-re we’re a bit more impatient. And query what thedifference is between “fair” and “reasonable,” anyway?

Q: Inwhat context are these terms used?

A: Standardssetting organizations (SSOs) require those that help cre-ate astandard (and sometimes all of the members of the SSO) to statebefore a standard is approved for implementation whether they haveany patent claims that would be unavoidably infringed by someoneimplementing the standard (such claims are referred to as “Necessary”or “Essential” Claims in SSO intellectual property rights (IPR)policies). If a member does, or may, have such claims, they arerequired to state which of up to three elections it will make inconnection with those claims (whether all three al-ternatives arepermitted depends on the SSO):

-they will license their Necessary Claims without c-harge, andotherwise on FRAND terms, to implementers of the standard (they canalso agree to simply not assert their Necessary Claims againstimplementers)

- theymake the same commitment, but reserve the right to c-harge a royaltyor other fee, which must be reasonable in amount

- theyrefuse to license one or more Necessary Claims, and identify thoseclaims, and the portions of the draft standard that would result inthe infringement.

Theextra requirements in the third al-ternative are quite important,because they allow the working group to try and "design around"the withheld claims.  Some SSOs require those choosing thesecond al-ternative to identify the claims, and the effected portionof the standard, as well, so that the working group members candecide whether to try to design their way around the claims in orderto avoid the chance that implementers may have to pay a royalty.

Q: Fairenough. But what does this really mean? 

A: Ah,now there’s an interesting question. First, let’s look alittle more closely at what the constituent words in these acronymsmean at a high level.

Trướctiên, có “Công bằng” và “Hợp lý”. Rõ ràng đó lànhững từ như vậy ít nhất có nghĩa là “không lợidụng hoặc bóp nặn”. Nhưng điều đó cho tới nay chỉđưa chúng ta xuống phố thôi.

Nócũng rõ ràng rằng đó là những từ so sánh được, vìthế theo tự nhiên, chúng ngụ ý rằng có một số dạngchỉ tiêu có liên quan tới tính công bằn và hợp lý cóthể đo đếm được. Nhưng những chỉ tiêu đo đếm đượcđó là gì nhỉ?

Đủthú vị, có thực sự là thiếu một lựa chọn không nhỉ?Trên thực tế, các bên đối với nhiều vụ kiện tụng,giữa các công ty riêng rẽ (như Broadcom và Qualcomm) vàgiữa những người điều chỉnh pháp luật và các côngty (như Ủy ban châu Âu và Ủy ban Thương mại Liên bang MỹFTC), về một bên, và Rambus, về bên kia) đã vật lộndài lâu với vấn đề này.

Vàmẹo mực hơn so với những lần gặp đầu để thấy,FTC đã thấy theo sự phiền muộn của mình khi FTC đã cốgắng trừng phạt Rambus. Theo định nghĩa, một tiêu chuẩntrao cho một sức mạnh độc quyền cho người sở hữucủa một Yêu sách Cần thiết theo tiêu chuẩn đó. Vậyliệu có công bằng và hợp lý hay không được xác địnhbởi tham chiếu tới một tình trạng nơi mà có nhiềucách để xây dựng thứ gì đó - một tình trạng hànghóa - hoặc nơi mà chỉ có một cách thức - một tìnhtrạng độc quyền?

Mộtthứ động khác tạo ra những điều khoản giá thành thựcsự là mẹo mực là việc một triển khai thường sẽ cầncấp phép cho những yêu sách bằng sáng chế khác cùng vớicác Yêu sách Cần thiết cho một giá thành độc nhất,được đưa vào kèm. Thế thì làm thế nào bạn có thểnói có khả năng phân bổ được bao nhiêu cho các Yêusách Cần thiết, và bao nhiêu cho các yêu sách khác?

Đủđể nói rằng trong khi từng có một số lượng kiệntụng ngày một gia tăng về chủ đề này, thì lại chưacó đủ để tạo ra một định nghĩa rõ ràng về pháp lýđể thị trường có thể dựa vào đó được.

First,there’s “Fair” and “Reasonable.” It’s obvious that wordslike these at least mean “not exploitive or extortionate.” Butthat gets us only so far down the road.

It’salso obvious that these are comparative words, so by nature, theyimply that there is some sort of benchmark in relation to whichfairness and reasonableness can be measured. But what would thatbenchmark be?

Interestinglyenough, there really isn’t one. In fact, the parties to a lotof recent litigation, between individual companies (like Broadcom andQualcomm) and between regulators and companies (like the EuropeanCommission and the U.S. Federal Trade Commission (FTC), on the onehand, and Rambus, on the other hand) have grappled at length withthis issue.

Andit’s trickier than first meets the eye, as the FTC found out to itssorrow when it tried to punish Rambus. By definition, a standardgrants a monopoly power to the owner of a Necessary Claim under thatstandard. So should fair and reasonable be determined byreference to a situation whe-re there are multiple ways to buildsomething – a commodity situation – or whe-re there is only oneway – a monopoly situation?

Anotherdynamic that makes the pricing terms really tricky is that animplementer will often need to license other patent claims f-rom thesame company in order to build their product, and the patent ownerwill price those claims along with the Necessary Claims for a single,bundled price. So how can you tell how much is allocable to theNecessary Claims, and how much to the other claims?

Sufficeit to say that while there has been an increasing amount oflitigation on this subject, there hasn’t yet been enough togenerate a clear legal definition upon which the marketplace canrely.

H:OK, tôi có thể hiểu điều đó. Thế còn về “khôngphân biệt đối xử” thì sao?

Đ:Thoạt nhìn, điều đó có lẽ sẽ là một mệnh đề dễdàng hơn để áp dụng. Trong thực tế, những gì nó cónghĩa là tôi sẽ không cấp phép cho Yêu sách Cần thiếtcủa tôi cho một nhà cung cấp với giá 1 USD 1 đơn vịđược xây dựng trong một tiêu chuẩn, và 2 USD cho nhàcung cấp khác vì lý do y hệt.

Nhưngkhông quá nhanh như vậy. Điều gì xảy ra nếu nhà cungcấp muốn mua 100 đơn vị một năm mà nó tuân thủ tiêuchuẩn đó, và nhà cung cấp khác muốn xây dựng 1 triệuđơn vị? Liệu cái sau có kéo theo được vơi một sựgiảm giá về số lượng lớn hay không?

Ởđây lại có sự phức tạp khác: điều gì xảy ra nếungười chủ sở hữu của Yêu sách Cần thiết đã có mộtgiấy phép chéo rồi với nhà cung cấp đầu tiên, theo đócả người cấp phép và người được cấp phép đều đãtruy cập được tới các bằng sáng chế của nhau? Liệusự không phân biệt đối xử đối với người sở hữuYêu sách Cần thiết có lấy tiền hay không đối với nhàcung cấp đầu tiên cho mỗi đơn vị, và lấy của nhàcung cấp thứ hai 1USD cho một lần bán hay không? Các bênđối với giấy phép chéo liệu có nói có, vì mỗi bênđã đầu tư tiền vào phát triển công nghệ để bắtđầu với, và sau đó cấp bằng sáng chế cho nó. Vì thếmỗi bên đang có được giá trị từ những người khácrồi.

Nhưngnếu điều đó là công bằng, thì sau đó làm thế nàocác công ty công nghệ mới đang nổi lên có khả năng đểvào được thị trường bằng những sản phẩm tuân thủcác tiêu chuẩn, khi họ phải trả tiền bản quyền chohàng đống các công ty đã được thiết lập và đang đèbên trên, trong khi không có những thay đổi nào về tiềnđược trao tay giữa những người khổng lồ đó?

Vìthế, chỉ như một cụm từ của “hầu hết một quốcgia có lợi” trong một hợp đồng truyền thống thườngkhông giúp cho bên yêu cầu khái nhiệm đó, vì các hợpđồng có thể khác biệt nhau theo vô số cách, nên yêucầu đưa ra những điều khoản “không phân biệt đốixử” cho tất cả những người triển khai là khó đểxác định nhất, và tệ nhất, đưa ra sự bảo vệ ítnhất cho những người triển khai các tiêu chuẩn.

H:Vậy “FRAND” có bất kỳ nghĩ nào khác đặc biệtkhông?

Đ:Có, có một vài điều khoản mà thường được giảthiết sẽ là những điều khoản của FRAND. Đôi khi chúngchỉ cốt được nhắc trong một Chính sách IPR của mộtSSO và đôi khi không. Một ví dụ là “sự treo có tínhbảo vệ”, mà nó có nghĩa rằng nếu bạn cấp phép mộtYêu sách Cần thiết cho một người triển khai, và họquay lại kiện bạn vi phạm một Yêu sách Cần thiết màhọ sở hữu khi bạn triển khai cùng y hệt tiêu chuẩnđó, thì bạn có thể rút lui giấy phép của bạn. Nhưngđiều đó sẽ không cho phép để rút lui giấy phép củabạn nếu họ kiện bạn vì một số lý do khác.

H:Liệu có bất kỳ thứ gì một người triển khai, và đặcbiệt một công ty nhỏ, có thể làm nếu nó nghĩ rằng nóđã không được đưa ra những điều khoản FRAND haykhông?

Đ:Hầu hết chẳng có gì, vì 2 lý do.

Q: Okay,I can understand that. So how about “non-discriminatory?”

A: Atfirst blush, that would seem to be an easier phrase to apply. Inessence, what it means is that I won’t license my Necessary Claimto one vendor for $1 a unit built to a standard, and for $2 toanother vendor for the same purpose.

Butnot so fast. What if one vendor wants to buy build 100 units ayear that conform to the standard, and another wants to build amillion? Shouldn’t the latter be entitled to a quantitydiscount?

Here’sanother complication: what if the owner of the Necessary Claimalready has a cross license in place with the first vender, underwhich both licensor and licensee already have access to each others’patents? Is it non-discriminatory for the owner of the NecessaryClaim to not c-harge the first vendor anything per unit, and c-hargethe second $1 per sale?  The parties to the cross license wouldsay yes, because each invested the money to develop the technology tobegin with, and then to patent it.  So each is getting valuef-rom the other already.

Butif it is fair, then how will new, emerging technology companies beable to enter the marketplace with standards-compliant products, whenthey have to pay royalties to multiple huge, established, incumbentcompanies, while no money changes hands between those behemoths?

So,just as a “most favored nation” clause in a traditional contractoften doesn’t help the party that demands the term, becausecontracts can differ one f-rom another in so many ways, therequirement to provide “non-discriminatory” terms to allimplementers is at best hard to define, and at worst, provides littleprotection to standards implementers.

Q: Sodoes “FRAND” mean anything specific at all?

A: Yes,there are some terms that are generally assumed to be FRANDterms. Sometimes they’re expressly mentioned in an SSO’s IPRPolicy and sometimes not. An example is “defensivesuspension,” which means that if you license a Necessary Claim toan implementer, and they turn around and sue you for infringing aNecessary Claim that they own when you implement the same standard,then you can withdraw your license. But it wouldn’t bepermissible to withdraw your license if they sued you for some otherreason.

Q: Isthere anything an implementer, and especially a small company, can doif it thinks that it hasn’t been offered FRAND terms?

A: Almostnothing, for two reasons.

Trướchết, các giấy phép của các Yêu sách Cần thiết thườngbao gồm những điều khoản bí mật. Vì thế một công tykhông có cách gì để nói liệu nó có những điều khoảny hệt như một công ty khác hay không - thậm chí công tykhác trong một tình huống tương tự. Vì thế điều đólàm cho sự vi phạm phần “không phân biệt đối xử”là không có khả năng nói được.

Mộtngười triển khai đòi hỏi một giấy phép tất nhiên sẽbiết được họ đang được yêu cầu phải trả bao nhiêutiền, và nếu điều đó có vẻ là quá nhiều, thì họcó thể từ chối trả tiền. Nhưng như được nêu ởtrên, không có một định nghĩa pháp lý rõ ràng nào vềcái gì là một tỷ lệ tiền thanh toán “hợp lý” sẽlà. Vì thế người triển khai nghĩ số được yêu cầulà quá cao, nó có thể phải kêu gọi người sở hữu làbịp bợm Yêu sách Cơ bản, và coi liệu họ có kiện haykhông.

Tấtnhiên, nếu người triển khai không bị kiện, thì họ sẽphải hoặc trả tiền, hoặc bỏ tiền ra đề tự bảo vệhọ và hy vọng rằng tòa án hoặc bồi thẩm đoàn đồngý với họ rằng số lượng yêu cầu là không hợp lý.Nhưng thậm chí nếu người triển khai thắng được, thìhọ vẫn có thể vẫn phải trả tiền cho phí bản quyềnthấp hơn - nói một cách khác, con số mà tòa án đã xácđịnh có thể là hợp lý.

Kếtquả là, sẽ có nhiều hơn các vụ kiện có liên quan tớimột người triển khai kêu rằng yêu sách đã không bịvi phạm hoàn toàn, hoặc rằng bản thân yêu sách bằngsáng chế nên không bao giờ được Văn phòng Bằng sángchế và Thương hiệu trao cả. Nếu có thể thành công vềmột trong những lý lẽ đó, thì nó sẽ không hàm ơn bấtkỳ thứ gì cả.

Tiếcthay cho người triển khai, nếu những con đường đókhông thấy hứa hẹn, thì không có nhiều điều họ cóthể làm. Các SSO sẽ không giúp gì được, và vì lý dotốt lành. Họ đơn giản không có các tài nguyên đểtham gia trong các cuộc tranh cãi giữa các thành viên. Hơnnữa, các qui định chống độc quyền (tại Mỹ), cácluật cạnh tranh (tại châu Âu) và các qui định tương tựở những nơi khác trên thế giới làm cho nó hầu nhưkhông có khả năng đối với các SSO tham gia trong các cuộctranh luận về định giá. Và hãy nhớ rằng hầu hết cácSSO về CNTT-TT đều là những tổ chức thành viên, nên sẽkhông có nhiều động lực cho họ để tham gia vào khi cácthành viên của họ bắt đầu ném đá vào lẫn nhau.

Nhữngngười triển khai mà nghĩ họ đang bị đối xử khôngcông bằng có thể, dù vậy, liên hệ với các nhà điềuchỉnh pháp luật để kêu, và đôi khi những nhà điềuchỉnh đó sẽ mở một cuộc điều tra để xem những gìđang diễn ra.

First,Necessary Claims licenses often include confidentiality terms. Soone company has no way to tell whether it got the same terms asanother company – even another company in a similar situation. Sothat makes violation of the “non-discriminatory” part impossibleto tell.

Animplementer requesting a license will know, of course, how muchthey’re being asked to pay, and if that seems like too much, theycould refuse to pay. But as noted above, there isn’t a clearlegal definition of what a “reasonable” payment rate would be. Soif the implementer thinks the amount demanded is too high, it wouldhave to call the owner of the Essential Claim’s bluff, and seewhether they sue.

Ofcourse, if the implementer does get sued, they’re going to have toeither pay up, or pay to defend themselves and hope that a judge orjury agrees with them that the amount demanded was not reasonable.But even if the implementer wins, they may still have to pay a lowerroyalty - in other words, the amount that the court determined wouldbe reasonable. 

Asa result, there are more suits that involved an implementer claimingeither that the claim wasn't infringed at all, or that the patentclaim itself should never have been granted by the Patent andTrademark Office.  If can succeed on one or these arguments,then it won't owe anything a all.

Unfortunatelyfor the implementer, if neither of those avenues look promising, thenthere’s not much else they can do. The SSOs aren’t any help,and for good reason. They simply don’t have the resources toget involved in disputes between members. Also, the antitrustrules (in the U.S.), competition laws (in Europe) and similar ruleselsewhe-re in the world make it almost impossible for SSOs to getinvolved in pricing discussions. And remember that mostinformation and communications technology SSOs are membershiporganizations, so there aren’t a lot of incentives for them to getinvolved when their members start throwing stones at each other.

Implementersthat think they are being unfairly treated can, however, contactregulators to complain, and sometimes those regulators will open aninvestigation to see what’s going on.

H:Thế vì sao các SSO lại không xác định những từ nàogiống như “hợp lý” và “không phân biệt đối xử”có nghĩa là gì nhỉ?

Đ:Vâng, điều đó phụ thuộc vào những gì bạn ngụ ý là“dễ dàng hơn”. Các nhà cung cấp, và đặc biệt làcác nhà cung cấp với những hồ sơ rất khổng lồ cácbằng sáng chế, quan tâm lớn về việc duy trì sự tự dohành động của họ. Trong một tình huốn, họ có thểmuốn “hợp lý” có nghĩa là thế này, trong khi trongtình huống khác thì họ có thể muốn nó có nghĩa là thứgì đó khác.

Vídụ, ở những nơi mà một tiêu chuẩn đặc biệt nào đólà sống còn cho một quyết định chiến lược nhiều tỷUSD của một nhà cung cấp, thì họ muốn FRAND có nghĩa làmột cam kết càng chặt có thể càng tốt, sao cho tất cảnhững đối thủ cạnh tranh của họ phải làm cho các Yêusách Cần thiết sẵn sàng, lý tưởng là trong những điềukhoản phí bản quyền. Nhưng trong tình huống khác, nơi màcũng chính nhà cung cấp đó ít nhiều chỉ đang đi vớimột tiêu chuẩn cụ thể nào đó như để chạy đua, thìhọ có thể muốn có khả năng sử dụng con bài Yêu sáchCần thiết của họ cho ưu thế của họ chống lại mộthoặc nhiều hơn các công ty khác.

Vàtôi mong đợi rằng thứ cuối cùng mà các công ty vớicác kho bằng sáng chế lớn muốn thấy có thể là mộtcuộc thảo luận công khai về việc liệu những giấyphép chéo giữa các công ty chủ chốt có nên được tínhy hệt như một yêu cầu phải trả tiền bản quyền đángkể của một công ty với ít, hoặc không có các bằngsáng chế đối với tên của nó hay không. Nếu một nhàđiều chỉnh pháp luật nắm lấy tính thế mà một côngty nhỏ nên có được một giấy phép ự do trong trườnghợp giống như vậy, thì một rào cản chính ở lối vàođối với các đối thủ cạnh tranh mới có thể có.

H:Nhưng còn về sự kiện tụng mà ông đã nhắc tới thìsao? Liệu nó có lấy của các công ty nhiều tiền haykhông?

Đ:Có và không. Có, nó lấy đi nhiều tiền từ các công tymà tham gia trong vụ kiện. Nhưng mỗi năm, trong khi hàngchục ngàn công ty cam kết với FRAND, thì chỉ một nhúmcác công ty (hoặc ít hơn) bị kiện tại tòa. Phần cònlại hoặc đạt được thỏa thuận, hoặc người đượccấp phép chỉ đơn giản là không có khả năng để nóiliệu người cấp phép có làm thỏa mãn cam kết FRAND củahọ hay không mà thôi.

Q: Sowhy don’t SSOs just define what words like “reasonable” and“non-discriminatory” mean? Wouldn’t that make life easierfor everyone?

A: Well,that depends on what you mean by “easier.” Vendors, andespecially vendors with very large patent portfolios, care greatlyabout maintaining their freedom of action. In one situation,they might want “reasonable” to mean one thing, while in anotherthey may want it to mean something different. 

Forexample, whe-re a particular standard is crucial to a multi-billiondollar strategic decision by a vendor, they’d like FRAND to mean astight a commitment as possible, so that all of their competitors haveto make their Necessary Claims available, ideally on royalty-freeterms. But in another situation, whe-re the same vendor is moreor less just going along with a particular standard for the ride,they might want to be able to use their Necessary Claim card to theiradvantage against one or more other companies.

AndI expect that the last thing that companies with large patentportfolios would like to see would be a public discussion overwhether cross-licenses between major companies should be counted thesame as a requirement to pay a significant royalty by a company withfew, or no, patents to its name. If a regulator were to take theposition that a little company should get a free license in a caselike that, then a major barrier to entry for new competitors wouldfall.

Q: Butwhat about the litigation you mentioned? Doesn’t that costcompanies a lot of money?

A: Yesand no. Yes, it costs those companies that engage in litigationa lot of money. But every year, while tens of thousands ofcompanies give FRAND commitments, only a handful of companies (orfewer) end up in court. The rest either reach agreement, or thelicensee was simply unable to tell whether the licensor wasfulfilling its FRAND commitment or not.

H:Thế vì sao những người điều chỉnh pháp luật khôngtham gia vào? Họ không quan tâm à?

Đ:Họ có quan tâm, nhưng hãy nhìn gần hơn vào những gì họquan tâm nhé.

TạiMỹ, các nhà điều chỉnh pháp luật có (theo quan điểmcủa tôi) một tầm nhìn khá cân bằng. Họ muốn bảo vệngười tiêu dùng chống lại những thực tiễn không côngbằng của các nhà cung cấp và các nhà cung cấp dịch vụ,nhưng họ cũng không muốn đặt ra những gánh nặng vô cớlên các công ty (đó là, sau tất cả, không chỉ Valhallacủa các nhà tư bản, mà còn là một nền kinh tế mà vẫnđang vật lộn để nổi lên từ một sự suy thoái khốcliệt) nên không chắc là họ đang định đi vứt bỏ đitrong nền công nghiệp đã chịu gánh nặng quá đáng tớikhông có mục đích gì.

Tôiđã gặp nhiều nhà điều chỉnh pháp luật Mỹ mỗi năm,và họ đang cảnh báo về các vấn đề mà có thể làquan trọng với họ để tham gia. Cho tới nay, không ai đangchỉ ra được sự giải nghĩa và ứng dụng của FRAND nhưmột vấn đề chủ chốt, nên tới nay họ đã còn chưacó hành động công khai nào, dù rada của họ đang quay.

Tạichâu Âu, tình huống hơi khác hơn. Trước hết, có ítcông ty công nghệ đa quốc gia đóng trụ sở ở đó, nênhọ thận trọng đối với những gì các công ty nướcngoài (thường là Mỹ) làm. Nhưng cũng chính những côngty Mỹ đó cũng đang thận trọng đặt nhiều nhà máy, vàvì thế thuê nhiều người tại châu Âu. . Họ cũng sửdụng nhiều người vận động hành lang ở đó.

Mộtmặt, các công ty có trụ sở chính ở Mỹ luôn gửi nhữngkhiếu nại cho Ủy ban châu Âu, kêu về sự tiến hành củacác công ty Mỹ khác. Đôi khi, họ gửi những khiếu nạiđó trực tiếp, và đôi khi họ sử dụng các hiệp hộithương mại như là những ủy quyền của họ.

Nhưmột sự thông thường, Ủy ban châu Âu có trách nhiệmđối với những khiếu nại đó. Những năm gần đây, họnhìn vào các hoạt động có liên quan tới các tiêu chuẩncủa một số các công ty công nghệ lớn của Mỹ, bao gồmcả Microsoft, IBM, Google và hơn nữa. Đôi khi họ đã thuđược các khoản phạt, và đôi khi họ chỉ đóng lạinhững yêu cầu mà không có hành động gì cả. Bây giờNeelie Kroess không còn chèo lái nữa, một số áp lực lêncác công ty đa quốc gia đã được nới lỏng.

Cuốingày, có lẽ tổng kết tốt nhất là những nhà điềuchỉnh pháp luật phải đề cập tới vô số các vấn đềđáng sợ, và những ưu tiên của họ đôi khi thay đổikhi những người lãnh đạo của họ thay đổi. Sự thiếuvắng một cơn khủng hoảng rõ ràng, chỉ có sự chú ýquá nhiều họ có thể đối với bất kỳ vấn đề riêngrẽ nào, thiếu một sự chỉ định rõ ràng vì sao họnên mở rộng những tài nguyên công khai đáng kể theo lýdo đó.

Q: Sowhy don’t the regulators get involved? Don’t they care?

A: Theydo care, but let’s take a closer look at what they care about.

Inthe U.S., the regulators have (in my view), a pretty balancedoutlook. They want to protect the consumer against unfairpractices by vendors and service providers, but they also don’twant to place gratuitous burdens on companies (this is, after all,not only the Valhalla of capitalists, but an economy that’s stillstruggling to emerge f-rom a dire recession) so it’s unlikely thatthey are going to go overboard on overburdening industry to nopurpose.

Imeet with a variety of U.S. regulators every year, and they’realert to issues that may be important for them to attend to. Sofar, no one is pointing at the interpretation and application ofFRAND as a major issue, so to date they haven’t taken any overtactions, although their radar has been spinning.

InEurope, the situation is somewhat different. First, there arefewer major, multinational technology companies headquartered there,so they are more watchful to what foreign (often U.S.) companies areup to. But those same U.S. companies are also careful to putlots of plants, and therefore hire lots of people, in Europe. Theyemploy lots of lobbyists there, too.

Onthe other hand, U.S. headquartered companies are constantly sendingcomplaints to the European Commission, objecting about the conduct ofother U.S. companies. Sometimes, they lodge these complaintsdirectly, and sometimes they use trade associations as their proxies.

Asa generality, the European Commission has been responsive to theseproddings. In recent years, they’ve looked intostandards-related activities of a number of large U.S. technologycompanies, including Microsoft, IBM, Google, and more. Sometimesthey’ve levied penalties, and sometimes they have simply closedthese inquiries without taking action. Now that Neelie Kroess isno longer at the helm, some of the pressure on multinationalcompanies has been relieved.

Atthe end of the day, perhaps the best summary is that regulators haveto cover an awful lot of issues, and their priorities sometimeschange as their leaders change. Absent a clear crisis, there’sonly so much attention they can pay to any individual issue, absent aclear indication of why they should expend significant publicresources in that cause.

H:Liệu có một chỉ định rằng họ nên, trong trường hợplạm dụng FRAND không?

Đ:Tôi ghét sự buồn tẻ, nhưng câu trả lời một lần nữalà “có và không”. Hãy nói trước hết về “không”.

Bấtchấp thực tế rằng (đối với tri thức của tôi) khôngai, không SSO duy nhất nào xác định “FRAND” có nghĩa làgì theo bất kỳ chi tiết nào, và chỉ một thiểu số nhỏ(nhưng đang gia tăng) của tất cả các SSO yêu cầu cácthành viên tham gia vào trong sự triển khai của một tiêuchuẩn đưa ra những điều khoản tự do về phí bảnquyền (vì thế hạn chế được hầu hết, nhưng khôngtất cả, sự tối nghĩa trong cam kết FRAND), rất, rất ítthành viên khi nào đó đòi quyền lợi thực sự cho mộtYêu sách Cần thiết chống lại một người triển khai.

Hầuhết, đây là trường hợp trong các lĩnh vực thị trườngnhư thương mại điện tử, Internet, Web và một số lĩnhvực phần mềm.

Phần“có” nảy sinh trong các khu vực thị trường khác, nhưđiện tử dân dụng, nơi mà không chỉ những đòi hỏiquyền lợi FRAND rất nhiều, mà những đòi hỏi quyềnlợi đó đi với những yêu cầu trả tiền bản quyềnthường được đòi quyền lợi tại tòa nếu cần phảiép buộc tuân thủ.

H:Vì sao một số công ty làm cho các Yêu sách Cần thiếtsẵn sàng một cách tự do hoàn toàn?

Đ:Đôi khi là vì một thị trường cho các sản phẩm củahọ sẽ không tồn tại trừ phi tiêu chuẩn đó đượcnắm lấy. Ví dụ, hãy nghĩ về WiFi. Trừ phi nhiều ngườitriển khai tiêu chuẩn đó, chứ bạn sẽ không biết yêucầu cho nó, hoặc được thỏa mãn với các kết quả. Vìthế việc làm cho một số bằng sáng chế sẵn sàng tựdo tạo ra ý nghĩa kinh doanh tốt, để làm cho nó có khảnăng hơn rằng những tiêu chuẩn theo yêu cầu được ápdụng rộng rãi hơn và nhanh hơn. Điều này thậm chítrong trường hợp nơi mà có hơn một tiêu chuẩn cạnhtranh cho sự áp dụng và bạn đã đánh cược rằng mộttiêu chuẩn sẽ thành công thay vì cái khác kia.

Q: Well,is there an indication that they should, in the case of FRAND abuse?

A: Ihate to be tedious, but the answer again is “yes and no.” Let’stalk first about the “no.”

Despitethe fact that (to my knowledge) not one, single SSO defines what“FRAND” means in any detail, and only a small (but growing)minority of all SSOs require members that participate in thedevelopment of a standard to provide royalty-free terms (thuseliminating most, but not all, of the ambiguity in a FRANDcommitment), very, very few members ever actually assert a NecessaryClaim against an implementer.

Mostly,this is the case in market sectors like ecommerce, Internet, Web andsome software domains. 

The“yes” part arises in other market sectors, like consumerelectronics, whe-re not only are FRAND assertions very numerous, butthose assertions are coupled with royalty requirements that arefrequently asserted in court if necessary to compel compliance.

Q: Sowhy do some companies make their Necessary Claims available for freeat all?

A: Sometimesit’s because a market for their products won’t exist unless thestandard takes hold. Think of WiFi, for example. Unlesslots of people implement the standard, you won’t know to ask forit, or be satisfied with the results. So making some patentsavailable for free makes good business sense, in order to make itmore likely that the standards in question are adopted more broadlyand more quickly. This is even more the case whe-re there is morethan one standard competing for adoption, and you’ve bet the ranchthat one standard will succeed instead of the other.

Nhữngnhững người sở hữu các bằng sáng chế cũng kiếmnhiều tiền từ những khiếu nại bằng sáng chế kháckhi họ thành công trong việc chỉ đạo một tiêu chuẩntheo hướng của họ. Hãy tưởng tượng rằng chúng tađang tạo ra những tiêu chuẩn đầu tiên cho xe đạp điềukhiển phanh, và bạn sở hữu các bằng sáng chế về bộchỉnh có thể ép vành lốp của xe. Bạn đưa ra một cáchcao thượng để làm cho các bằng sáng chế đó sẵn sàngkhông chỉ theo các điều khoản FRAND, mà cho tự do, vàcác phanh bộ chỉnh hoạt động bằng tay thắng một ngàynào đó.

Bạnđoán được gì nhỉ? Bạn cũng sở hữu các bằng sángchế mà đề cập tới miếng cao su mà các bộ chỉnh đógiữ, và tiêu chuẩn đó không giành cho các miếng đóhoàn toàn. Bây giờ, bất kỳ ai muốn xây dựng các phanhhoạt động bằng tay phải tới bạn để có được mộtgiấy phép, và bạn không có bất kỳ bổn phận nào cảđể làm cho các bằng sáng chế đó sẵn sàng theo cácđiều khoản hợp lý hoặc không phân biệt đối xử cả.Thế đó!

H:Thế có vẻ không hay. Nhưng vẫn còn, trong các lĩnh vựcthị trường đó nơi mà những đòi hỏi quyền lợi củacác Yêu sách Cần thiết là không thường xuyên, vì saocác SSO không thay đổi các chính sách IPR của họ đểyêu cầu - như những gì bạn gọi chúng - các chính sáchkhông phụ thuộc vào FRAND (FRAND – free)?

Đ:(Thường thì, chúng được gọi là FRAND-Z, với Z nghĩa là“0 - zero”, như trong “chi phí bằng 0”)

Vâng,đây là điều thú vị mà bạn nên nói tới. Một sốcông ty đa quốc gia chính, như IBM, ngày càng bảo vệ chocác chính sách FRAND-Z.

VàMicrosoft, mà theo truyền thống đã viện lý về FRAND nhưmà qui định mặc định cho các chính sách về IPR củacác SSO, tuần trước nói rằng hãng có thể sẽ không đòiquyền lợi đối với các quyền phí bản quyền khôngFRAND trong những yêu sách cơ bản chống lại những ngườitriển khai các tiêu chuẩn, thậm chí nơi mà nó đã khônggiúp phát triển những tiêu chuẩn đó, và vì thế khôngcó bổn phận để hạn chế những yêu cầu của chúng.Đó từng là một tuyên bố rất mạnh, và là sự thay đổihoàn toàn chính sách.

Butpatent owners can also make a lot of money f-rom other patent claimswhen they are successful in steering a standard in theirdirection. Imagine that we’re creating the first standards forbicycle hand operated brakes, and you own patents on calipers thatcan squeeze against bicycle tire rims. You magnanimously offerto make those patents available not only on FRAND terms, but forfree, and hand-operated caliper brakes win the day. 

Butguess what? You also own patents that cover the rubber pads thatthe calipers hold, and the standard doesn’t address pads atall. Now, anyone that wants to build hand-operated caliperbrakes has to come to you for a license, and you don’t have anyobligations at all to make these patents available on reasonable ornon-discriminatory terms. Voila!

Q: Thatdoesn’t sound good. But still, in those market sectors whe-reNecessary Claims assertions are infrequent, why don’t SSOs justchange their IPR Policies to require – what do you call them –FRAND-Free policies?

A: (Usually,they’re called FRAND-Z, whe-re the Z stands for “zero,” as in“zero cost”).

Well,it’s interesting you should say this. Some major multinationalcompanies, like IBM, are increasingly advocating for FRAND-Zpolicies. 

AndMicrosoft, which has traditionally argued for FRAND as the defaultrule for SSO IPR Policies, last week said that it would not assertnon-FRAND royalty rights in essential claims against standardsimplementers, even whe-re it had not helped develop those standards,and therefore had no obligation to limit their demands. That wasa very powerful statement, and quite a change of policy.

H:Thế vì sao họ đã làm điều đó?

Đ:Vâng, lý do gần đúng (như một nhà khoa học có thểnói), là việc Microsoft có lẽ đã muốn làm cho Googletrông tồi tệ. Bạn thấy đấy, Google đang cố gắng muamột công ty di động chính là Motorola Mobility, và các nhàđiều chỉnh pháp luật châu Âu và Mỹ đã phê chuẩnrằng sự sát nhập này trước khi nó có thể đi tiếpđược. Motorola Mobility sở hữu một loạt các bằng sángchế, bao gồm các bằng sáng chế với những Yêu sách Cầnthiết, mà áp dụng cho các thiết bị di động. Google đãnói với các nhà điều chỉnh pháp luật rằng hãng cóthể sẽ không lấy tiền của một người triển khainhiều hơn 2.25% chi phí net của một thiết bị di độngđể sử dụng các bằng sáng chế của Google.

H:Vâng, cái đó có vẻ là không nhiều. Thế vụ làm ăn lớnlà gì vậy?

Đ:Thế còn về việc liệu tôi nói cho bạn rằng thiết bịy hệt đó có thể có lẽ triển khai hơn 1.000 tiêu chuẩnthì sao, và rằng nhiều công ty có thể sở hữu nhữngYêu sách Cần thiết theo nhiều tiêu chuẩn đó thì sao?Nếu mỗi người sở hữu bằng sáng chế nắm lây vịthế y hệt như vậy, thì một thiết bị di động giá sẽlà bao nhiêu, hơn 10.000 USD chăng?

Q. Sowhy did they do that?

A: Well,the proximate cause (as a scientist would say), was that Microsoftpresumably wanted to make Google look bad. You see, Google istrying to acquire a key mobile company called Motorola Mobility, andEuropean and U.S. regulators have to approve that acquisition beforeit can go through. Motorola Mobility owns a variety of patents,including patents with Necessary Claims, which apply to mobiledevices. Googletold the regulators that it would not c-harge an implementer morethan 2.25% of a device’s net cost to use Google’s patents.

Q: Well,that doesn’t sound like a lot. What’s the big deal?

A: Howabout if I told you that the same device would likely implement morethan 1,000 standards, and that multiple companies would own NecessaryClaims under many of those standards? If every patent owner tookthe same position, a mobile device would cost, what, over $10,000?

H:Tôi nắm được ý bạn rồi. Vẫn còn, nếu Google nghĩhãng có thể làm được nhiều từ những yêu sách bằngsáng chế của hãng, thì vì sao các công ty như Microsoft vàApple lại hứa hẹn không lấy tiền phí bản quyền quámức cho đồ của họ?

Đ:Tốt cho bạn - bạn đang ở trong phần đáng kể thực sựcủa các tuyên bố của Apple và Microsoft.

Giảthiết 2 công ty đó nắm lấy mục tiêu sống còn nhìntrong chiếc gương ẩn dụ, và đã nhận thức được rằngđiều đơn giản có lẽ không còn bay lâu hơn được nữađối với họ để lấy tiền quá đáng đối với mộtYêu sách Cần thiết theo một tiêu chuẩn quan trọng đượcnữa, thì vì sao không nắm lấy cơ hội để đấm vàomũi của Google, và đưa ra một cam kết công khai sẽ khônglàm? Và điều đó là khổng lồ.

H:Vì sao bạn nói là “khổng lồ”?

Đ:Vì nó có nghĩa là các công ty khổng lồ, có ảnh hưởngkhó tin, tập trung vào những cổ đông đã nhận thứcđược rằng các tiêu chuẩn mở, giống như phần mềmnguồn mở, đang trở nên quá quan trọng cho thị trườngmà sự thiệt hại mà họ có thể làm đối với các mốiquan hệ khách hàng của họ nếu họ lợi dụng sức mạnhđộc quyền được một SSO trao cho họ có thể nặng kýhơn nhiều bất kỳ lợi nhuận nòa mà họ có thể hy vọnggiành được từ việc cấp phép cho các phí bản quyềnphụ thêm.

Cómột số viễn cảnh lịch sử để đánh giá sự thay đổichấn động này lớn thế nào điều này mang lại. Vàogiữa những năm 1990 - nói cách khác, ngược về nhữngngày cũ tồi tệ của những nền tảng sở hữu độcquyền - “các tiêu chuẩn mở” từng là thứ gì đó màmỗi người đã nói tới, nhưng không ai thực sự tin vàonó.

Saumột thập kỷ cho tới giờ dựa ngày một tăng vàoInternet, Web, và bây giờ là Đám mây, bạn đơn giảnkhông thể khoác lác về các tiêu chuẩn mở được hơnnữa. Các tiêu chuẩn là những gì cho phép thế giới dũngcảm của chúng ta, được kết nối lẫn nhau theo hàm mũđể làm việc. Nếu bạn lộn xộn với các tiêu chuẩn,vâng, thì có thể bạn là kẻ thù của mọi người.

Q: Itake your point. Still, if Google thought it could make thatmuch off its patent claims, why would companies like Microsoft andApple promise not to c-harge an excessive royalty for theirs?

A: Goodfor you – you’re on to the really significant part of Apple andMicrosoft’s statements.

Presumablythese two companies took a critically objective look in themetaphorical mirror, and realized that it simply would no longer flyfor them to overc-harge for a Necessary Claim under an importantstandard anyway, so why not take the opportunity to poke Google inthe nose, and make a public commitment not to? And that washuge.

Q: Whydo you say “huge?”

A: Becauseit means that these enormous, incredibly influential,stockholder-focused companies realized that open standards, like opensource software, are becoming so important to the marketplace thatthe damage they would do to their customer relations if they tookadvantage of the monopoly power handed to them by an SSO would faroutweigh any profit they could hope to obtain f-rom the extralicensing royalties.

Ittakes some historical perspective to appreciate how big a seismicchange this represents. In the mid-1990s – in other words,back in the bad old days of proprietary platforms – “openstandards” were something that everyone talked about, but no onereally believed in.

Aftera decade of ever increasing reliance on the Internet, the Web, andnow the Cloud, you simply can’t bull* about open standardsanymore. Standards are what allow our brave, ever moreexponentially inter-connected world to work. If you mess withstandards, well, maybe you’re an enemy of the people. 

Ngắngọn, giống hệt như phần mềm nguồn mở, nội dung mở,và dữ liệu mở, ngày càng nhiều hơn những người đangnhận thức được rằng các tiêu chuẩn mở là một phầncủa những gì chúng ta có thể tham chiếu một cách hợplý tới như là “Những thứ chung của Web”. Tất cảchúng ta ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào Những thứchung của Web để sống còn và thịnh vượng. Nếu cácbằng sáng chế mà cho phép Internet và Web hoạt động sẽkhông sẵn sàng trong các điều khoản của FRAND, thì chúngta sẽ làm gì?

Tôinghĩ rằng khái niệm và phạm vi của Những thứ chung củaWeb đang bắt đầu chiếm chỗ trong sự hiểu biết củacông chúng. Và không giống như những giả thiết cũ kỹrằng sự khai thác của bất kỳ thứ gì chung là khôngthể tránh khỏi (cái gọi là, bi kịch của những cáichung), hình thức mới là việc Những thứ chung của Websẽ không ở đó để được khai thác. Ngày càng nhiềungười hơn đang quyết định rằng trong thế giới ngàymai, thì Những thứ chung của Web phải được canh gác vớitất cả sức mạnh và sự quyết định được phân tántoàn cầu mà loài người có thể tập hợp lại được.Vì thế bất kỳ ai mà muốn đánh thuế không công bằng,hoặc khai thác, Những thứ chung của Web, thì sẽ làm nhưthế trong sự nguy hiểm tai họa lớn của họ.

H:Nghe có vẻ khá hay. Vậy bạn có thể tóm tắt lại điềunày được không?

Đ:Tôi nghĩ là có. Những gì những sự kiện của ít tuầngần đây chỉ ra là có lẽ không còn cần thiết nữa đểxác định “FRAND” có nghĩa là gì. Giống như phần mềmnguồn mở, ngày càng nhiều người hơn nhận thức đượcgiá trị và tầm quan trọng của các tiêu chuẩn mở. Vàgiống hệt như phần mềm nguồn mở, bạn không nhấtthiết phải có một định nghĩa hẹp về những gì FRANDcó nghĩa. Bạn đơn giản biết nó khi bạn thấy nó, chứkhông phải bằng những đặc tính riêng rẽ của nó, màbằng việc liệu nó có hay không xúc phạm cộng đồng.

Vàgiống hệt như nguồn mở, nếu bạn hành động chốnglại một người sử dụng các tiêu chuẩn mở, thì bạnsẽ ngày càng được coi như đang hành động chống lạitất cả những người sử dụng các tiêu chuẩn mở - nóicách khác, chống lại tất cả những người sử dụngcông nghệ. Nếu bạn quyết định cứ làm như vậy, thìbạn tốt nhất hãy chuẩn bị để trả lời cho khánthính phòng rộng lớn hơn đó.

Nếubạn nghĩ về điều đó, bạn có thể nói rằng điều đókhông chỉ công bằng, mà còn hợp lý nữa.

Inshort, just like open source software, open content, and open data,more and more people are recognizing that open standards are part ofwhat we might reasonably refer to as the “Web Commons.” Allof us are more and more dependent on that Web Commons in order tosurvive and prosper. If the patents that allow the Internet andthe Web to operate aren’t available on FRAND terms, what are we todo?

Ithink that the concept and scope of a Web Commons is beginning totake hold in the public consciousness. And unlike the oldassumptions that the exploitation of any commons is inevitable (theso-called, tragedyof the commons), the new gestalt is that the Web Commons isn’tthere to be exploited. More and more people are deciding that inthe world of tomorrow, the Web Commons must be guarded with all ofthe globally distributed might and determination that humanity canmuster. So anyone that wants to unfairly tax, or exploit, theWeb Commons will do so at their great peril.

Q: Thatsounds pretty cool.   So can you wrap this up?

A: Ithink so. What the events of the last few weeks indicate is thatperhaps it’s no longer necessary to define what “FRAND”means. Like open source software, more and more people recognizethe value and importance of open standards. And just like opensource software, you don’t necessarily have to have a narrowdefinition of what FRAND means. You simply know it when you seeit, not by its individual c-haracteristics, but by whether or not itoffends the community.

Andjust like open source, if you take action against one user of openstandards, you will increasingly be seen as taking an action againstall users of open standards – in other words, against all users oftechnology. If you decide to do so nevertheless, then you’dbetter be prepared to answer to that wider audience as well.

Ifyou think about it, you might say that’s not only fair, butreasonable, too.

Dịch tài liệu: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập42
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm40
  • Hôm nay6,396
  • Tháng hiện tại671,742
  • Tổng lượt truy cập37,473,316
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây