Vì sao nghiên cứu được đầu tư bằng tiền thuế phải trong miền công cộng

Thứ hai - 13/09/2010 06:01

whytax-funded research should be in the public domain

Theo:http://www.amazon.co.uk/exec/obidos/ASIN/0596008023/ref=nosim/mantexinformatio

Bài được đưa lênInternet ngày: 05/09/2010

Lờingười dịch: Các nghiên cứu và các sách nghiên cứu khoahọc mà đã được nhà nước cấp vốn bằng tiền đóngthuế của người dân phải là công khai trên website đểbất kỳ ai cũng có thể có được, vì họ đã trả tiềncho các nghiên cứu đó rồi.

Tại Anh một trụ cộtvề dạy học hàn lâm theo truyền thống có 3 yêu cầu –dạy, nghiên cứu và quản trị. Thời gian và năng lượngthường được phân bổ cho những hoạt động này hoặclà như nhau, hoặc theo trật tự ưu tiên. Các giáo viêntốt đi giảng bài, hướng dẫn các hội thảo và cácsách chỉ dẫn, chăm sóc sự phân bổ sinh viên, và thamgia (dù miễn cưỡng) vào các ủy ban của các phòng ban vàcác ban lãnh đạo của các khoa. Đó là quá khứ.

Với sự giới thiệucủa sự Thi hành Đánh giá Nghiên cứu (RAE) của chính phủ(đảng Lao động) thì tất cả đã thay đổi. Sự nhấnmạnh về các mô tả công việc đã chuyển toàn bộ thànhnghiên cứu đo đếm được và các kết quả sờ mó được.Chúng ta biết kết quả: các nhân viên đã chuyển càngnhiều việc dạy sang thành các giáo viên được trảlương thấp và làm việc bán thời gian không có kinhnghiệm - thương là các sinh viên sau khi tốt nghiệp hyvọng kinh nghiệp có thể trao cho họ một vài ưu thếtrong quá trình ít mỡ tìm nơi dụng võ.

Bây giờ không phổbiến để nghe về nhân viên gói bất kỳ cam kết dạyhọc còn sót lại nào trong một học kỳ - trao cho họ 2/3thời gian của năm được tự do muốn là gì họ thích. Ởmức chuyên nghiệp còn tệ hơn. Tại đại học mà tôi đãhọc một viện sĩ nổi tiếng với một uy tín quốc tếvới một mức lương 6 con số cho 2 giờ trong vòng nửatháng, đã từ chối đưa ra công khai địa chỉ thư điệntử hoặc số điện thoại của ông cho bất kỳ ai, và đãsống bên ngoài nước Anh, đi phản lực vào nước Anh chocác cuộc hội thảo của ông mỗi 2 tuần và quay trở lạitrong cùng một ngày.

Inthe UK a traditional academic teaching post carried threerequirements – teaching, research, and administration. Time andenergy were normally allocated to these activities in either equalparts, or at least in that order of precedence. Good teachers gavelectures, conducted seminars and tutorials, looked after theirallocation of students, and participated (however reluctantly) indepartmental committees and faculty boards. That was in the past.

Withthe introduction of the (Labour) government’s Research AssessmentExercise (RAE) all that changed. The emphasis of job descriptionsmorphed entirely into measurable research and tangible outcomes. Weknow the result: staff transferred as much teaching as possible ontopoorly-paid and inexperienced part-time teachers – usuallypost-graduate students hoping the experience would give them someadvantage in the greasy-pole process of seeking tenure.

Itis now not uncommon to hear of staff packing any remaining teachingcommitments into one term (or semester) – giving them two-thirds ofa year free to do as they wish. At professorial level it’s evenworse. At my former university a well-known academic with aninternational reputation on a six-figure salary taught for two hoursonce a fortnight, refused to make his email address or his telephonenumber available to anyone, and lived outside the UK, jetting in forhis celebrity seminars every two weeks and returning the same day.

Công việc thú vịnếu bạn có thể có nó - tất cả đều từ chi phí củangười đóng thuế. Phần không hay duy nhất của hệ thốngnày cho tới nay ở các viện sỹ được quan tâm là việchọ có bổn phận viết các bài báo và cuốn sách và xuấtbản chúng. Không làm được như vậy thường có nghĩa làsẽ bị trừng phạt với một tải dạy học nặng hơnhoặc thậm chí tệ hơn, với các trách nhiệm bổ sung củacác phòng ban.

Vì thế mà hệ thống,nếu nó làm việc phù hợp, có nghĩa là các thành viên làcác viện sỹ nghiên cứu một số chủ đề có quan tâmmà họ tự chọn theo nguyên tắc của họ. Họ sau đóviết các bài báo sẽ được xuất bản trong các tạp chíhàn lâm, và bất kỳ nghiên cứu các sách dài nào cũngđược sản xuất bởi các viện sĩ hoặc các nhà xuấtbản thương mại.

Họ được trao thờigian để làm công việc này, thậm chí có cả một hệthống nghỉ ngơi cho phép (một học kỳ, hoặc một nămkhông làm việc) và họ được trả lương cho tất cả.

Tuy nhiên bản chấttự nhiên của các mã làm việc như vậy, nền kinh tếcủa hệ thống này đảm bảo cho sự soi xét xa hơn. Trongtrường hợp của các tạp chí hàn lâm thì dường như làkhông có tiền nào thực sự được trao tay. Các viện sĩxuất bản công việc của họ mà không trả tiền. Họlàm thế với động lực của danh tiếng chuyên nghiệp vàcác điểm được bổ sung vào các xếp hạng theo RAE.Nhưng trong thực tế thì nhà xuất bản lấy tiền củacác thư viện đại học và cao đẳng và số lượng khổnglồ đố với sự thuê bao cho tạp chí. Điều này là đúngthậm chí trong kỷ nguyên số khi mà ngày càng nhiều hơncác xuất bản phẩm không tìm được đường để in. Sốlượng những người được cho là thực sự đọc đượccác bài viết uyên thâm này thực sự là bé tí tẹo. Cáccon số giữa 1-5 độc giả cho một bài báo là thôngthường. Vì thế hệ thống này là đắt và không hiệuquả.

Nicework if you can get it – all at taxpayers’ expense. The only downside to this system so far at the academics are concerned is thatthey are under an obligation to write articles and books and get thempublished. Failure to do so usually means being punished with aheavier teaching load or even worse, with extra departmental duties.

Sothe system, if it is working properly, means that academic staffmembers investigate some self-chosen topic of interest in theirdiscipline. They then write articles that are published in academicjournals, and any book-length studies are produced by academic orcommercial publishing houses. They are given the time to do thiswork, there is even a system of sabbatical leave (a term, semester,or year off work) and they are paid salaries throughout.

Notwithstandingthe nature of such employment codes, the economics of this systemwarrant further scrutiny. In the case of academic journals it wouldappear that no money actually changes hands. Academics publish theirwork with no payment. They do so with the incentive of professionalkudos and points added to their RAE ratings. But in fact thepublisher c-harges university and college libraries an enormous amountfor subscription to the journal. This is true even in the digital agewhen more and more publications fail to find their way into print.The recorded number of people who actually read these scholarlyarticles is truly microscopic. Figures between one and five readersper article are quite common. So the system is expensive andinefficient.

Trong trường hợp cácviện sĩ và các nhà xuất bản sách thương mại thì hệthống này là ít tối tăm hơn, nhưng các nguyên tắc tươngtự áp dụng được. Hầu hết các nhà sách của trườngđại học được bao cấp nặng, thậm chí nếu họ kêusẽ độc lập về kinh tế đối với cơ quan chủ quảncủa họ. [Họ thường không có yếu tố về chi phép vănphòng và không gian lưu trữ, có thể thể thậm chí cảlương của nhân viên nữa]. Cho dù, họ sản sinh ra nhữngtác phẩm xứng đáng, không phổ biến mà được bán chomột khán thính phòng của các thư viện đại học và caođẳng ở một chi phí khổng lồ.

Đây chính là vấnđề. Tôi gần đây đã rà soát lại một xuất bản phẩmrất tốt dạng này (nhiều thứ còn lâu mới gọi là tốtđược) - một bộ sưu tập các bài tiểu luận về vănhọc và lịch sử văn hóa mà bán lẻ trong con số đángkể 120 bảng anh. Điều đó là hơn 20 lần giá của mộtcuốn sách kinh điển phổ biến, và cách mà ngân sách muasắm sách của hầu hết những người thông thường.

Các tác giả của bộbiên soạn này có lẽ không quá lo lắng về tình trạngcủa công việc. Họ có lương viện sĩ của họ, họ sẽnhận được một tổng nhỏ (hoặc có thể không gì cả)cho những chương viết của họ. Phần thưởng của họtới từ vị thế viện sĩ được cải thiện hoặc mộtlời mời nói chuyện tại một hội nghị, các chi phí củanó sẽ do người thuê họ trả.

Inthe case of academic and commercial book publishers the system is alittle more murky, but similar principles apply. Most in-houseuniversity presses are heavily subsidised, even if they claim to beeconomically independent of their parent-host. [They commonly do nothave to factor in the cost of office and storage space, and maybe noteven staff salaries.] Nevertheless, they produce worthy, non-popularworks which are sold to an audience of college and universitylibraries at a huge cost.

Hereis a case in point. I have recently reviewed a very good publicationof this kind (many are far f-rom good) – a collectionof essays on literature and cultural history which retails at thehandsome figure of one hundred and twenty pounds. That is more thantwenty times the price of a popular classic, and way beyond thebook-purchasing budget of most normal human beings.

Theauthors of this compilation may not be too worried about this stateof affairs. They have their academic salaries, they will havereceived a small sum (or maybe even nothing) for their chapters.Their reward comes f-rom enhanced academic status or an invitation tospeak at a conference, the costs of which will be paid by theiremployer.

Các nhà xuất bảnsách thương mại hoạt động hầu như theo cùng hệ thốngnhư vậy. Một thanh toán trước rất nhỏ trong tương laicho việc bán hàng có thể sẽ được chấp nhận cho mộttác giả mà lương của người đó bằng mọi cách đãđược chi trả. Nếu cuốn sách được bán, thì lợinhuận của nhà xuất bản sẽ lớn hơn nhiều so với củatác giả (người ban đầu không có động lực đối vớidoanh số bán được); và nếu nó không bán được, thìnó sẽ đi vào đống bùn của những đầu sách còn dưcùng với tất cả nhiều sách không bán được khác. Tácgiả vẫn có thể bổ sung xuất bản phẩm này vào đềxuất RAE của phòng ban và tiếp tục viết nhiều sách hơnnữa mà chúng sẽ không bán được.

Có 2 thứ không đúngvề cơ bản với tình trạng này. Một là sự cấp vốnnhà nước được được sử dụng và bị lạm dụng, vàhai là việc toàn bộ hệ thống nghiên cứu, xuất bảnphẩm của nó và sự tiêu dùng của nó có thể đượctiến hành hiệu quả hơn nhiều (và với chi phí hầu nhưbằng 0) bằng việc sử dụng các nguồn của Internet.

Bây giờ hơn 10 nămkể từ khi Steven Hamad đã xuất bản cuốn Đề xuất cótính lật đổ mà kết quả của nghiên cứu hàn lâm nênđược làm cho sẵn sàng thông qua một quá trình 'tự lưutrữ' số ở dạng các trang web. Ông thậm chí nghĩ thôngqua quá trình phê chuẩn này, các bình luận và những sửalỗi vì thế sản phẩm cuối cùng như được thanh tra kỹlưỡng như một bài viết trên tạp chí truyền thống.Mục tiêu chính của ông khi đó là vượt qua quá trìnhnặng nhọc kinh khủng của việc xuất bản in ấn hàn lâmmà có thể gây ra sự chậm trễ tới 2 năm trước khi mộtbài viết thấy được ánh sáng ban ngày. Nhưng trong thựctế các lý do y hệt có thể được thực hiện để gợiý rằng nghiên cứu được cấp vốn bằng tiền củanhững người đóng thuế phải tự động được đặttrong miền công cộng. Sau tất cả, nếu nhà nước đãtrả tiền cho nó, thì các kết quả nên là sẵn sàng chomọi người.

Không ai có thể thuatừ một hệ thống như vậy, và tất cả các bên có quantâm có thể giành được gì đó theo cách nào đó. Thànhviên là nhân viên của viện hàn lâm viết một tài liệuvà xuất bản những tìm kiếm nghiên cứu trên mộtwebsite - có thể một website được thiết lập bởi đạihọc chủ quản. Nội dung tài liệu đi qua bất kỳ sựđánh giá đồng hàng hay qui trình rà soát lại nào, vàsau đó được đưa vào lưu thông ngay lập tức và làmcho sẵn sàng một cách công khai - nhanh hơn nhiều so vớithứ tương đương được in. Đại học giữ được uytín công chúng về một 'sự đóng góp cho tri thức'; tácgiả có lẽ có nhiều độc giả và những ý kiến phảnhồi hơn; và công chúng truy cập được tác phẩm mà đãđược trả tiền rồi.

Commercialbook publishers operate virtually the same system. A very smalladvance payment on future possible sales will be acceptable for anauthor whose wages are anyway being paid. If the book sells, thepublisher profits far more than the author (who is not primarilymotivated by sales income); and if it doesn’t sell, it goes intothe slush pile of remaindered titles along with all the many otherunsold books. The author can still add this publication to thedepartmental RAE submission and go on to write more books that don’tsell.

Thereare two things fundamentally wrong with this state of affairs. One isthat public funding is being used and abused, the other is that thewhole system of research, its publication and its consumption couldbe conducted far more efficiently (and at almost zero cost) by usingthe resources of the Internet.

Itis now more than ten years since Steven Harnad published hisSubversiveProposal that theresults of academic research should be made available via a processof digital ’self-archiving’ in the form of Web pages. He eventhought through the process of peer approval, comments andcorrections so that the final product was just as rigorouslyinspected as a traditional journal article. His main objective at thetime was to overcome the terribly laborious process of academic printpublishing that can result in delays of up to two years before anarticle sees light of day. But in fact the same arguments can be madeto suggest that research funded by taxpayers money shouldautomatically be put into the public domain. After all, if the publichas paid for it, the results should be available to everybody.

Nobodywould lose f-rom such a system, and all interested parties would standto gain in some way. The academic staff member writes a paper andpublishes research findings onto a web site – maybe one establishedby the host university. The content of the paper goes through anypeer appraisal and revision process, and then is put into immediatecirculation and made available to the public – far more quicklythan its print equivalent. The university keeps the public kudos of a‘contribution to knowledge’; the author is likely to have farmore readers and more feedback; and the public has access to workthat it has paid for.

Tất nhiên có thể cónhững trường hợp đặc biệt. Một số phòng khoa họccó quan hệ đối tác tài chính với các công ty thươngmại và công nghiệp mà có liên quan tới bản quyền, bằngsáng chế. và các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ.Đây là một ví dụ về những người đóng thuế bao cấpcho các lợi ích thương mại, nhưng những thứ này có lẽhợp lý để được loại trừ khỏi các mô hình như thếnày. Nhưng đa số các nghiên cứu được triển khai tuânthủ với ít hoặc không có giá trị thương mại hoàntoàn. Nó năm đó không được ai đọc, không được yêu,bị bỏ rơi, bị chôn vùi khỏi tầm nhìn trong các ngănlưu trữ của các phòng ban và thư viện.

Thậm chí còn khôngcó bất kỳ lý do vì sao những thứ với một sản phẩmcó thể bán được lại không được xuất bản ra giấycũng như dạng số. Nếu một bài báo của một nghiên cứudài như cuốn sách chứng minh được sự phổ biến trênkhông gian web, thì đó là một sự phê chuẩn lôi cuốncho tới nay như những nhà xuất bản in được quan tâm.Và những lý lẽ về truy cập trực tuyến tự do đốinghịch với việc để bản ở dạng in bây giờ sẽ đượcnổi tiếng. Làm cho thứ gì đó sẵn sàng một cách tựdo trên trực tuyến sẽ cải thiện được cơ hội củamọi người mua cùng một thứ ở định dạng được in,đặc biệt theo lợi ích nhỏ và các chủ đề đặc biệt.

Vì thế - hệt nhưbất kỳ thông tin nào được thu thập bởi chính phủphải được làm cho sẵn sàng một cách không mất tiềncho công chúng (các số thống kê dân số, các con số chitiêu của chính phủ, các bản đồ Nghiên cứu Hậu cần)các kết quả nghiên cứu được tiến hành trong cáctrường đại học được cấp vốn nhà nước phải làsẵn sàng cho mọi người dân mà đã trả tiền cho nóthông qua thuế của họ. Trong thực tế trong khi chúng lànhư vậy, thì tôi không nghĩ có bất kỳ lý do nào vì saocác đại học không xuất bản các kế hoạch học tậpcác khóa học của họ và các tư liệu dạy học cũng vậy- bạn có thể chứ?

Roy Johnson – tháng09/2010

Ofcourse there may be special cases. Some science departments havefinancial partnerships with commercial and industrial companies whichinvolve copyright, patents, and intellectual property rights issues.This is another example of taxpayers subsidising commercialinterests, but these might reasonably be excluded f-rom such schemes.But the vast majority of research is carried out in subjects withlittle or no commercial value at all. It lies unread, unloved, andignored, buried far out of sight in departmental archives and libraryvaults.

Thereisn’t even any reason why those with a saleable product shouldn’tpublish in print as well as digitally. If an article of abook-length study proves popular in its Web space, that is acompelling endorsement so far as print publishers are concerned. Andthe arguments regarding free online access versus for sale in printare now well known. Making something available free on line enhancesthe chance of people buying the same thing in printed format,especially in minority interest and specialist subjects.

So– just as any information gathered by a government should be madeavailable free of c-harge to the public (population statistics,government spending figures, Ordnance Survey maps) the results ofresearch conducted in publicly-funded universities should beavailable to the people who pay for it through their taxes. In factwhilst they’re at it, I can’t think of any reason whyuniversities shouldn’t publish their course syllabuses and teachingmaterials as well – can you?

RoyJohnson – September 2010

Dịch tài liệu: LêTrung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập49
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm48
  • Hôm nay5,304
  • Tháng hiện tại602,791
  • Tổng lượt truy cập37,404,365
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây