October 2, 2008
By Bruce Perens
Theo: http://itmanagement.earthweb.com/osrc/article.php/3775446/Bruce+Perens:+A+Big...
Bài được đưa lên Internet ngày: 02/10/2008
Về tác giả: Bruce Perens là người sángl ập của Định nghĩa nguồn mở (Open Source Definition), là tuyên ngôn của nguồn mở và các tiêu chí cho việc cấp phép cho phần mềm nguồn mở. Perens đã trình bày về nguồn mở tại Hội nghị cao cấp thế giới liên hiệp quốc về xã hội thông tin, theo yêu cầu của chương trình phát triển liên hiệp quốc.
About the Author Bruce Perens is the creator of the Open Source Definition, the manifesto of Open Source and the criterion for Open Source software licensing. Perens represented Open Source at the United Nations World Summit on the Information Society, at the request of the United Nations Development Program.
Toà án phúc thẩm đã xoá bỏ hầu hết các nghi ngờ về việc cấp phép cho nguồn mở, vĩnh viễn, trong một quyết định mà nó đã đặc biệt có lợi cho các dự án như GNU, Creative Commons, Wikipedia, và Linux. Người mà đã nhắc nhở rằng quyết định có thể được mô tả như một kẻ thù tồi tệ nhất mà một dự án phần mềm tự do có thể có. Đây là câu chuyện về cách mà cộng đồng chúng ta đã có thể hưởng lợi từ kẻ thù đó.
Trong một chục năm đã tồn tại các câu hỏi: Liệu các giấy phép nguồn mở cuối cùng có thể mang ra thi hành được hay không? Liệu các điều khoản của chúng, kêu gọi một tình trạng bớt căng thẳng về bằng sáng chế hoặc mở mã nguồn ra có là hợp pháp hay không?
Liệu các hợp đồng mà chúng đòi hỏi các thoả thuận bởi tất cả các bên có là hợp lệ, hoặc các giấy phép, mà ràng buộc ngay cả nếu bạn không đồng ý hay không? Những mức phạt nào có thể đưa ra cho một nhà lập trình phát triển nguồn mở: chỉ là những dấu hiệu thiệt hại, hay là nhiều hơn thế?
An appeals court has erased most of the doubt around Open Source licensing, permanently, in a decision that was extremely favorable toward projects like GNU, Creative Commons, Wikipedia, and Linux. The man who prompted that decision could be described as the worst enemy a Free Software project could have. This is the story of how our community was able to benefit f-rom that enemy.
For a decade there'd been questions: Are Open Source licenses enforceable at all? Are their terms, calling for a patent detente or disclosure of source code, legal?
Are they contracts, which require agreement by all parties to be valid, or licenses, which are binding even if you don't agree to then? What legal penalties can a Free Software developer employ: only token damages, or much more?
Phán quyết của toà án làm cho các câu trả lời tới những câu hỏi này là rõ ràng. Liệu các câu hỏi nặng ký như vậy tới trong các trường hợp có liên quan tới IBM, Sun, HP hoặc Red Hat hay không? Không, đây là thế giới giỏi nguỵ biện của phần mềm tự do: đây là một trường hợp kiện tụng về mô hình.
Lý do cho rất nhiều câu hỏi về các giấy phép của nguồn mở là đơn giản: sẽ không có bất ký trường hợp kiện tụng nào về chúng, nên không ai có thể nói với bất kỳ sự tin tưởng nào về cách mà một toà án có thể sẽ phán quyết. Ít trường hợp mà đã bắt đầu mà không bao giờ đạt được lời phán quyết, vì các bên thiết lập ra vụ kiện và giữ các chi tiết bí mật các thoả thuận của họ.
Một trường hợp nổi tiếng chúng ta đã từng nghe, là vụ kiện tự huỷ hoại mình của SCO đối với những người sử dụng Linux và IBM, đã thiết lập tính nguồn gốc của Linux, nhưng đã không quan tâm tới việc cấp phép của phần mềm tự do. Vì thế, chúng ta đã chờ đợi 10 năm cho vụ kiện ma quái này mà nó có thể thiết lập sự bền vững pháp lý của việc cấp phép nguồn mở, và đã không có được nó.
Đưa vào 2 người chống đối: Ở bên trái là Bob Jacobsen: vào cái ngày mà trong biên chế của một phòng thí nghiệm nghiên cứu hạt nhân của chính phủ, vào cái đêm mà một người có sở thích riêng về mô hình tàu hoả, Jacobsen đã xây dựng những gì có thể sẽ là một sản phẩm quyết định: “Giao diện đường tàu hoả mô hình Java” (Java Model Railroad Interface) hoặc “JMRI”, một phần mềm máy tính cho việc kiểm soát mô hình các đoàn tàu. Jacobsen đã trao JMRI cho thế giới như là phần mềm tự do, không bao giờ mong đợi kiếm 1 xu từ dự án này nhưng chỉ yêu cầu chia sẻ các phần mềm mà ông ta đã tạo ra với những người có sở thích riêng về tàu hoả khác.
The court's ruling makes the answers to these clear. Did such weighty questions come up in cases involving IBM, Sun, HP, or Red Hat? No, this is the quirky world of Free Software: it was a court case about model trains.
The reason for so many questions about Open Source licenses was simple: there weren't any court cases about them, so nobody could say with any confidence how a judge would rule. The few cases that did start up never reached a verdict, because the parties settled their dispute and kept the details of their agreement secret.
The one high-publicity case we've ever had, SCO's self-destructive pursuit of Linux users and IBM, established the originality of Linux, but didn't concern Free Software licensing. So, we had waited 10 years for the magic lawsuit that would establish the legal solidity of Open Source licensing, and hadn't gotten it.
Enter the two opponents: on the left, Bob Jacobsen: by day on the staff of a government nuclear research lab, by night a model train hobbyist. Jacobsen built what might be the ultimate nerd product: "Java Model Railroad Interface" or "JMRI," computer software for controlling model trains. Jacobsen gave JMRI to the world as Free Software, never expecting to make a cent f-rom the project but only asking to share the software he cre-ated with other train hobbyists.
Ở bên phải: là Matthew Katzer, chủ của một công ty mà bán phần mềm mô hình tàu hoả, người đã đệ trình các bằng sáng chế mà về cơ bản bao trùm tất cả việc sử dụng của các máy tính để kiểm soát mô hình tàu hoả. Katzer đã mang lại và sau nó rút lui khỏi một số vụ kiện chống lại các nhà vận động hành lang cho các mô hình tàu hoả khác, những người mà tới lượt họ cho rằng công nghệ mà Katzer khiếu nại đã được phát minh gần đây không phải là của ông ta, mà thực tế là đã tồn tại từ những năm 1960.
Jacobsen cho rằng trong năm 2002, Katzer đã đệ trình cho các bằng sáng chế về các tính năng mà đã có sẵn trong JMRI của Jacobsen, và rằng Katzer đã không nói cho văn phòng bằng sáng chế về “sản phẩm trước đó”, bằng chứng là những người khác đã phát minh ra trước khi Katzer làm. Sự kỳ quặc của luật pháp về bằng sáng chế của Mỹ cho phép những người đề xuất khiếu nại rằng họ đã tạo ra một phát minh từ lâu trước khi họ đệ trìnhh đề xuất bằng sáng chế này, và khiếu nại đề xuất của Katzer năm 2002 là sự tiếp tục của một đề xuất về bằng sáng chế năm 1998 – vì vậy là bước đã có từ trước của công việc của Jacobsen. Không may, Văn phòng bằng sáng chế Mỹ làm rất ít để chứng minh rằng mọi người thực sự đã làm ra sáng chế của họ khi họ nói họ đã làm, và không làm một việc kiểm tra cho “sản phẩm trước đó” mà thôi.
On the right: Matthew Katzer, owner of a company that sells model train software, who has filed patents that essentially cover all use of computers to control model trains. Katzer has brought and later withdrawn a few lawsuits against other model train hobbyists, who in turn allege that the technology Katzer claims to have invented recently is not his, and has actually existed since the 1960's.
Jacobsen alleges that in 2002, Katzer filed for patents on features that were already available in Jacobsen's JMRI, and that Katzer didn't tell the patent office about the "prior art," evidence that other people made the invention before Katzer did. Oddities of U.S. patent law allow applicants to claim that they cre-ated an invention long before they file the patent application, and Katzer's 2002 application claims to be the continuation of a 1998 patent application - thus side-stepping the pre-existence of Jacobsen's work. Unfortunately, the U.S. Patent Office does little to verify that people actually made their invention when they say they did, and doesn't do a thorough check for "prior art" either.
Một khi bằng sáng chế của Katzer đã được công nhận, ông ta đã bắt đầu gửi báo giá cho Jacobsen, yêu cầu trả 200.000 USD và đe doạ kiện ra toà. Jacobsen có thể đã chờ vụ kiện không thể tránh khỏi này, nhưng đã cảm thấy rằng việc xoay chuyển chiếc bàn có thể sẽ còn tốt hơn. Ông đã đưa ra vụ kiện ngược lại Katzer, yêu cầu toà án quyết định rằng bằng sáng chế của Katzer là không có hiệu lực.
Sau khi ông đã đệ trình vụ kiện, Jacobsen thấy rằng sản phẩm thương mại của Katzer sao chép một số JMRI của Jacobsen(mà Katzer đã thừa nhận trước toà, theo sự phát hiện của toà án phúc thẩm) và đó là nơi mà câu chuyện này trở nên còn phức tạp hơn nữa. Bằng việc đặt phần mềm JMRI của Jacobsen vào sản phẩm của mình, Katzer tự ràng buộc mình vào các điều khoản trong giấy phép nguồn mở của JMRI, mà nó cấm Katzer đòi các bằng sáng chế của ông chống lại những người lập trình phát triển của JMRI – Jacobsen và các bạn bè của ông.
Đây là, thưa các bạn, một lý do lớn vì sao các nhà lập trình phần mềm tự do sử dụng các giấy phép. Các dự án nguồn mở trao cho họ tiếp tục công việc một cách tự do, và các nhà lập trình phát triển của các dự án đó không phải bỏ ra hàng triệu đồng trong toà án khi ai đó tấn công họ bằng một cái bằng sáng chế đáng ngờ vực. Họ đặc biệt không thể làm điều đó trong khi những kẻ công kích về bằng sáng chế làm cho công việc của riêng các dự án nguồn mở vào thành một phần của các sản phẩm thương mại của những người công kích bằng sáng chế đó.
Jacobsen đã chỉnh trang trường hợp của mình chống lại Katzer để đưa vào một khiếu nại rằng Katzer đã vi phạm bản quyền đối với các phần mềm của Jacobsen bằng việc sử dụng trong sản phẩm của ông ta mà không thành thực nêu các điều khoản của giấy phép hoặc đưa ra bất kỳ thẩm quyền nào mà các phần mềm đó đã là của Jacobsen.
Once Katzer's patent was granted, he started sending bills to Jacobsen, asking for $200,000 and threatening to sue. Jacobsen could have waited for the inevitable lawsuit, but felt that turning the tables would work better. He brought suit against Katzer, asking the court to decide that Katzer's patent was not valid.
After he filed the suit, Jacobsen found that Katzer's commercial product copies some of Jacobsen's JMRI (which Katzer has admitted in court, according to the finding of the appeals court) and that's whe-re this story gets even more complicated. By putting Jacobsen's JMRI software in his product, Katzer bound himself to the terms in JMRI's Open Source license, which prohibit Katzer f-rom asserting his patents against the developers of JMRI - Jacobsen and his friends.
This, folks, is one big reason why Free Software developers use licenses. Open Source projects give their work away for free, and their developers can't spend millions in court when someone attacks them with a questionable patent. They especially can't do that while the patent aggressor makes the Open Source project's own work into part of the patent aggressor's commercial products.
Jacobsen amended his case against Katzer to include a claim that Katzer was infringing the copyright on Jacobsen's software by using it in his product without honoring the license terms or giving any attribution that the software was Jacobsen's.
Dịch tài liệu: Lê Trung Nghĩa
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...