Chiến lược chống lại sự bình dân (Phần 2 và hết)

Thứ năm - 01/05/2008 07:50
hoặc Vì sao Chính sách Mua sắm các phần mềm tự do nguồn mở của Chính phủ bị áp dụng sai

The Tragedy of the Anti-Commons

or Why Government FLOSS Purchasing Policy is Misapplied

Theo: http://brendanscott.wordpress.com/2008/04/23/tradegy-of-the-anti-commons/

Bài được đưa lên Internet ngày: 23/04/2008

Lời người dịch: Bài này liên quan tới chính sách mua sắm của chính phủ, đặc biệt là đối với phần mềm, sao cho không có xu hướng hỗ trợ việc tạo ra các nhà độc quyền và làm giám giá trị mua sắm của chính phủ và không có lợi cho những người đóng thuế.

The Tragedy of the Anti-Commons

Chiến lược chống lại sự bình dân

Nhà độc quyền trong tương lai có một giai đoạn có thể bị tổn thương trước khi nó thiết lập được sản phẩm độc quyền trong thị trường mà trong đó chiến lược này là mạo hiểm (vì nó phải mang theo giá thành được định giá thấp hơn). Tuy nhiên, bản chất tự nhiên mang tính bi kịch này (nghĩa là sự định mệnh) của quá trình này, bị ghép với những phần thưởng to lớn sẽ tới từ việc chơi trò chơi này làm cho nó chắc chắn xảy ra sớm hơn hoặc muộn hơn một sự độc quyền sẽ được thiết lập – nó chỉ đòi hỏi một nhà độc quyền trong tương lai sẽ thành công vì một sự độc quyền sẽ trở nên bị cố thủ. Không có số lượng của những thử thách thất bại nào sẽ ngăn trở thử thách tiếp sau và người chiến thắng xẽ chiếm tất cả bản chất tự nhiên của kịch bản đó sẽ tiếp tục kéo theo trong những nhà độc quyền mới trong tương lai.

A prospective monopolist has a period of vulnerability before it has established the monopoly product in the market in which this strategy is risky (because it must carry the costs of underpricing). However, the tragic (ie fatalistic) nature of the process, coupled with the huge rewards to be had f-rom playing the game makes it inevitable that sooner or later a monopoly will be established - it only requires one prospective monopolist to succeed for a monopoly to become entrenched. No number of failed attempts will prevent the next attempt and the winner take all nature of the scenario will continually draw in new prospective monopolists.

What is a Better Approach?

Tiếp cận nào là tốt nhất?

Chính phủ có thể có nhiều vai trò trong việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ mà việc hỗ trợ, thiết lập và duy trì những sự độc quyền không điều chỉnh được không phải là một trong số đó.

Trong khi giá trị cho yêu cầu về tiền là cơ bản đúng, thì để nâng cao nó thành vị thế của nguyên tắc chỉ đạo hoặc việc loại bỏ nó khỏi ngữ cảnh là không được. Giá trị về tiền phải được xác định bằng sự tham khảo tới giá thành được trả trong tổng thể của cộng đồng đối với sự thu được của Chính phủ, chứ không phải đối với giá phải trả của Chính phủ hoặc nhà chức trách đối với sự thu được đó. Giá trị về định giá tiền này là xa hơn, bị phức tạp bởi thực tế là sự đánh giá này phải là tất yếu:

  • Phải là một thứ đang được thực hiện. Một sự mua sắm ngày hôm nay sẽ không có giá ngay lập tức ảnh hưởng lên phần còn lại của cộng đồng – những tác động này là tất cả trong tương lai và một số của chúng có thể là trung hạn và dài hạn;

  • Kéo theo một sự xem xét lại những thứ thu được trước đó của Chính phủ (như một sự thu được trước đó (chấp nhận được) có thể sẽ không chấp nhận nhận được khi đưa ra tổng hợp với một sự thu được được đề xuất); và

  • Kéo theo một sự xem xét lại những thứ khác mà các phần mềm – đặc biệt là liệu nhà cung cấp có thể là trong một vị thế điều khiển được thị trường.

Tất nhiên, tính phức tạp của vấn đề sẽ được giải quyết bằng một giá trị về định giá tiền làm cho nó khó áp dụng với bất kỳ sự kiên định hoặc chắc chắn nào. Liên quan tới sự khoá trói trong phần mềm nó chỉ có thể cảm thấy điều tốt lành với một chút bản chất thực tế. Mọi sự nghi ngờ phải được giải quyết đối nghịch lại với những sự độc quyền.

Government may have many roles in the procurement of goods and services but supporting, establishing and maintaining unregulated monopolies is not one of them.

While the value for money requirement is fundamentally correct, to elevate it to the status of gospel or taking it out of context is not. Value for money must be determined by reference to the price paid in the aggregate by the community for the Government’s acquisition, not to the price paid by Government or authority for the acquisition. This value for money assessment is further complicated by the fact that the assessment must necessarily:

    • be an ongoing one. A purchase today has no immediate cost impacts on the rest of the community - those impacts are all in the future and some of them may be in medium or long term;

    • involve a review of pre-existing Government acquisitions (as a previous (acceptable) acquisition may be unacceptable when taken in combination with a proposed acquisition); and

    • involve a review of things other than the software - in particular whether the vendor is likely to be in a position to manipulate the market.

Of course, the complexity of issues to be addressed by a value for money assessment make it difficult to apply with any consistency or certainty. In relation to lock in software it may only be a feel good term with little real substance. Any doubt should be resolved against the creation of monopolies.

Nếu những điều khoản của giấy phép cho phép sử dụng vĩnh viễn từng bản sao và cho phép Chính phủ bán được từng bản sao của phần mềm giành được và làm như vậy một cách độc lập với bất kỳ phần cứng nào được yêu cầu trong sự kết hợp với các phần mềm mà chúng có thể làm giảm được một số ảnh hưởng độc quyền của sự sắp xếp đó. Đáng tiếc là cấu trúc của luật bản quyền thưòng cấm sự sắp xếp này trong thực tế và, trong bất kỳ sự kiện nào, có thể không hạn chế tất cả những ảnh hưởng độc quyền.

If the licence terms permit perpetual use of each copy and permit the Government to onsell each copy of the software acquired and to do so independently of any hardware acquired in conjunction with the software that would reduce some of the monopolistic impact of the arrangement. Unfortunately the structure of copyright law usually forbids this arrangement in practice and, in any event, would not eliminate all monopolistic effects.

Particular Example - Whole of Government Purchasing

Ví dụ cụ thể – Toàn bộ việc mua sắm của Chính phủ

Toàn bộ những thứ thu nhận được của Chính phủ đối với các phần mềm bị khoá trói một cách đặc biệt sẽ cung cấp giá trị tồi tệ về tiền trong phân tích này. Những thứ thu được như vậy sẽ cung cấp một cài đặt rộng lớn các phần mềm đó khắp trong chính phủ và tạo ra một cách có hiệu lực một môi trường tong đó những cải tiến gia tăng là giá thành thuần chức không phải là sự tiết kiệm thuần. Ví dụ, nếu các phần mềm đó đã được mua cho toàn bộ Phòng X, sau đó việc sử dụng một sản phẩm rẻ hơn cho một vài người sử dụng sẽ không tạo ra kết quả về bất kỳ sự tiết kiệm giá thành nào – đối nghịch lại khi có một hiệu ứng tăng gấp đôi về giấy phép cho một nhóm nhỏ thì nó có giá thành lớn hơn là sử dụng các phần mềm rẻ hơn! Xa hơn chúng sẽ tạo ra một cơ sở cài đặt được cố thủ mà nó làm tăng giá thành vào lần mua sắm tiếp sau (vì cơ sở được cài đặt này một cách có hiệu quả bức chế các yêu cầu mua sắm trong lần mua sắm sau đó).

Whole of Government acquisitions of lock in software provide especially poor value for money on this analysis. Such acquisitions provide a vast installation of the software across government and effectively cre-ate an environment in which incremental improvements are net costs rather than net savings. For example, if the software has been purchased for the whole of Department X, then using a cheaper product for some users will not result in any cost savings - on the contrary since there is an effective doubling up on the licensing to the small group it costs more to use cheaper software! Further they cre-ate an entrenched installed base which increases the costs in the next round of acquisition (because this installed base effectively dictates purchasing requirements in that acquisition round).

Particular Example - Key Resources

Ví dụ đặc biệt – Các tài nguyên chủ chốt

Những mua sắm phần mềm của Chính phủ cho các dịch vụ hoặc tài nguyên chủ chốt cũng cung cấp một cách đặc biệt giá trị tồi tệ về tiền trong phân tích này. Trong những trường hợp thế này thì tầm quan trọng của dự án phù hợp (ví dụ, việc cung cấp thông tin công cộng của cơ quan y tế, phát thanh hoặc thư viện) sẽ tạo ra một sự khoá trói vì nhu cầu chung của công chúng để tương tác với cơ quan đó. Nhu cầu về tương tác đó sẽ tạo ra trong công chúng một nhu cầu phải có các phần mềm để truy cập các tài nguyên, với sự thiết lập tất yếu của một sự độc quyền. Đây là một sự hư danh nguy hiểm cho những tài nguyên công để áp dụng các công nghệ khoá trói trong việc cung cấp các thông tin và dịch vụ thông qua việc đối mặt với các giao diện.

Government acquisitions of software for key services or resources also provide especially poor value for money on this analysis as well. In these cases the importance of the relevant project (for example, the provision of public information by a health body, broadcaster or library) cre-ates a lock in because of the general need of the public to interact with that body. That need for interaction will cre-ate in the public a need to acquire the software in order to access the resource, with the consequent establishment of a monopoly. It is a dangerous vanity for public resources to adopt lock in technologies in the provision of information or services through public facing interfaces.

Note on Formats, Standards and Protocols

Lưu ý về các định dạng, tiêu chuẩn và giao thức

Thảo luận này đã tập trung vào các phần mềm trước tiên vì nó quen và dễ hiểu về mặt khái niệm. Tuy nhiên, những lý lẽ được trình bày áp dụng một cách ngang bằng cho việc chấp thuận các sản phẩm mà chúng đòi hỏi việc sử dụng một định dạng, tiêu chuẩn hoặc giao thức dữ liệu cụ thể nào đó, có đặc tính khoá trói. Quả thực, cuối cùng thì vấn đề là không có nhiều trong các phần mềm mà chúng điều khiển các dữ liệu mà theo cách trong đó các dữ liệu được lưu trữ và trao đổi được. Trong nhiều trường hợp các phần mềm (và đặc biệt các phần mềm khoá trói) có việc ánh xạ trực tiếp chống lại một định dạng dữ liệu đặc chủng nào đó và có thể mà vì thế sẽ được xác định bằng định dạng đó. Nếu không có định dạng dữ liệu khoá trói được sử dụng, thì những ảnh hưởng tiêu cực của sự thu được của các phần mềm khoá trói sẽ suy giảm được rất nhiều.

This discussion has focussed on software primarily because it is more familiar and is conceptually easier to understand. However, the arguments presented apply equally to the adoption of products which require the use of a particular data format, standard or protocol if that format, standard or protocol has the lock in c-haracteristic. Indeed, ultimately the issue is not so much in the software which manipulates data but in the manner in which data is stored and exchanged. In many instances software (and particularly lock in software) has a direct mapping against a specific data format and can therefore be identified with that format. If no lock in data format is used, the negative effects of the acquisition of lock in software is greatly reduced.

Notes

Lưu ý

* Vì các mục đích của tài liệu “các phần mềm khoá trói” tham chiếu tới các phần mềm với nó: giấy phép cho các phần mềm đó trói người có giấy phép vào người cấp phép hợc với bất kỳ bên thứ 3 nào cũng hoàn toàn luôn; hoặc các phần mềm này được thiết kế để thực hiện việc trói như vậy và không có khả năng hoặc hoàn toàn hoặc trong thực tế đối với người có giấy pháp để tránh được hoặc loại bỏ được sự trói buộc đó. Các phần mềm khoá trói bao gồm các phần mềm: mà nó là không thể tương hợp (nghĩa là không thể lưu sang một định dạng tiêu chuẩn trong cấu hình ngầm định của nó) hạơc không tương hợp được bên ngoài tập sản phẩm đó đối với một nhà cung cấp cụ thể hoặc tập hợp các nhà cung cấp, mà đối với họ chỉ có một nguồn sản xuất (nhiều kênh bán hàng sẽ không tính) và nguồn của phần mềm đó có một mức đọ đáng kể sức mạnh thị trường trong thị trường phần mềm thích hợp. Bằng định nghĩa, thì các phần mềm khoá trói không bao gồm các phần mềm mà chúng đáp ứng được định nghĩa của nguồn mở.

** Về mặt kỹ thuật có thể ít hơn một nửa. Nó chỉ là một nửa nếu Chính phủ phải mua một widget cho một ô tô trên đường.

*** Giá này sẽ được xác định bởi yêu cầu cho Widget A và có thể không là 10 lần (những cũng có thể vượt quá). Nếu, như trong trường hợp của phần mềm, luật sẽ ngăn ngừa việc bán, nhà cung cấp A cũng sẽ có khả năng phân biệt giá, bằng việc lấy tiền từng người tiêu dùng riêng rẽ nhiều tới mức nào họ có thể trả.

[Lưu ý ban đầu có sẵn cho việc xem xét lại vào ngày 07/01/2008]

* For the purposes of this paper “lock in software” refers to software for which: the licence for that software ties the licensee to the licensor or to any third party either implicitly; or the software is designed to effect such a tying and there is no capacity either at all or in practice for the licensee to avoid or remove that tying. Lock in software includes software: which is not interoperable (eg doesn’t save to a standard format in its default configuration) or not interoperable outside the product set for a specific vendor or set of vendors, for which there is only one manufacturing source (multiple sales channels don’t count) and that source of the software has a substantial degree of market power in the relevant software market. By definition, lock in software does not include software which meets the open source definition.

** Technically probably less than half. It’s only half if the Government must buy one widget per car on the road.

*** The price will be determined by the demand for Widget A and may not be (but also might exceed) 10x. If, as in the case of software, the law prevents on sale, Vendor A will also be able to price discriminate, by c-harging each individual consumer as much as they are willing to pay.

[Note initially made available for review on 7 January 2008]

PS: Khái niệm về Widget: (Phần này không dịch, chỉ để tham khảo)

Pronounced wih-jit. (1) A generic term for the part of a GUI that allows the user to interface with the application and operating system. Widgets display information and invite the user to act in a number of ways. Typical widgets include buttons, dialog boxes, pop-up windows, pull-down menus, icons, scroll bars, resizable window edges, progress indicators, se-lection boxes, windows, tear-off menus, menu bars, toggle switches and forms.

(2) The term also refers to the program that is written in order to make the graphic widget in the GUI look and perform in a specified way, depending on what action the user takes while interfacing with the GUI.

The term widget is used to refer to either the graphic component or its controlling program or to refer to the combination of both.

Dịch tài liệu: Lê Trung Nghĩa

ltnghia@yahoo.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập127
  • Máy chủ tìm kiếm7
  • Khách viếng thăm120
  • Hôm nay6,142
  • Tháng hiện tại100,072
  • Tổng lượt truy cập36,158,665
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây