GettingLost in the Patent Thicket Thicket
Published 11:29, 29November 11, By GlynMoody
Bài được đưa lênInternet ngày: 29/11/2011
Lờingười dịch: Những bụi rậm bằng sáng chế tù mù vàchồng lấn lên nhau làm cho mọi sự đòi quyền lợi đềutrở nên không rõ ràng, đặc biệt là trong phần mềm máytính, làm cản trở đối với bất kỳ ai muốn bước vàothị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ,buộc họ phải thương lượng với những thứ tù mùtrước đó để được bước vào. Điều đáng sợ lànhững bụi rậm bằng sáng chế ngày một dày đặc hơn.
Một trong nhiều dấuhiệu có hy vọng rằng đội của Hargreaves đã biết nhữnggì học đang nói từng là sự thừa nhận rằng những bụirậm về bằng sáng chế từng là một mối nguy hiểm ngàycàng tăng trong nhiều lĩnh vực, đáng kể là công nghệdi động. Một trong những hành động tiếp sau từ báocáo điều tra lĩnh vực này xa hơn, và bây giờ chính phủAnh đã đưa báo cáo đó ra [.pdf]:
Nghiên cứu hiện hànhđã được khởi xướng với 3 mục tiêu chính trong đầu:
Để bắt đầu nắm lấy tranh luận về những bụi rậm về các bằng sáng chế từ tiếp cận tiếu lâm và nghiên cứu nhỏ, hướng tới một phương pháp luận được tổng quát hóa hơn bằng việc cung cấp một nguyên tắc phân loại cho việc thảo luận về các bụi rậm bằng sáng chế;
Để tạo ra một phương pháp luận được tự động hóa cho việc dò tìm các bụi rậm bằng sáng chế trong các dữ liệu bằng sáng chế được được xuất bản; và
Để đánh giá liệu có hay không các bụi rậm bằng sáng chế thể hiện một rào cản lối vào đối với các công ty, đặc biệt là các công ty vừa và nhỏ, tại nước Anh.
Cụm từ “bụi rậmbằng sáng chế” là một khái niệm mô tả nhấn mạnhtới vấn đề mà những người mới bước vào một thịtrường có thể đối mặt khi có ý định đổi mới bêntrong, hoặc vào bên trong, một không gian công nghệ cónhững quyền sở hữu trí tuệ hiện đang có sẵn. Địnhnghĩa được sử dụng thường xuyên nhất về một bụirậm là định nghĩa do Shapiro đã đưa ra:
“Một web dày đặccác quyền trí tuệ chồng lấn nhau mà một công ty phảithọc qua theo cách của mình để thực sự thương mạihóa được công nghệ mới”
Trọng lượng tươngứng được đưa ra cho các lĩnh vực công nghệ bị phânmảnh (những lĩnh vực nơi mà số lượng lớn những tàisản bằng sáng chế nhỏ), hoặc những lĩnh vực nơi màcó những số lượng nhỏ các tay chơi lớn với nhữngtài sản bằng sáng chế lớn, mỗi trong số các lĩnh vựctạo ra một bụi rậm mà bất kỳ người nào bước vàolĩnh vực đó cũng sẽ phải thương lượng để có khảnăng hoạt động được.
Oneof the many hopeful signs that the Hargreaves team knew what theywere talking about was the recognition that patent thickets were anincreasing danger in many fields, notably that of mobile technology.One of the actions flowing f-rom the report was to investigate thisarea further, and now the UK government has released its report[.pdf]:
thecurrent study was initiated with three key aims in mind:
1.to begin to take the debate around patent thickets away f-romanecdotal and micro-study approach, toward a more generalisedmethodology by providing a general taxonomy for discussing patentthickets;
2.to generate an automated methodology for detecting patent thickets inpublished patent data; and
3.to assess whether or not patent thickets present a barrier to entryfor companies, particularly SMEs, in the UK.
Thephrase “patent thicket” is a descriptive term which highlightsissues that new entrants to a market may face when attempting toinnovate within, or enter into, a technology space having existingintellectual property rights. The most generally used definition of athicket is that coined by Shapiro:
“adense web of overlapping intellectual property rights that a companymust hack its way through in order to actually commercialize newtechnology”
Equalweighting is given to fragmented technological areas (areas whe-rethere are large numbers of small patent holdings), or areas whe-rethere are small numbers of large players with large patent holdings,each of which cre-ates a thicket that any entrants into the area willhave to negotiate in order to be able to operate.
Nghiên cứu 70 trangtất cả những thứ này với sự tỉ mỉ đáng khen, vàdọc theo con đường đó nhờ vào sự đóng gói dễ chịuvề cách mà các bằng sáng chế được cho là làm việc:
Các bằng sáng chếbao gồm một loạt các tuyên bố rõ ràng và chính xác đưara phạm vi bảo vệ được bên nguyên yêu cầu. Nhữngtuyên bố này được biết tới như là các yêu sách. Mộtđịnh nghĩa của các yêu sách được trích dẫn mà NgàiRussell đã đưa ra:
“Chức năng củacác yêu sách là để xác định một cách rõ ràng và vớisự chính xác độc quyền được yêu sách, sao cho nhữngngười khác có thể biết biên giới chính xác của lĩnhvực mà trong đó họ sẽ là những kẻ xâm phạm. Mụcđích ban đầu của họ là để hạn chế và không mởrộng sự độc quyền. Những gì không được yêu sách sẽđược chối bỏ”.
Giống nhiều với mộtkẻ thực dân trong bức tranh công nghệ, một bên nguyênvề bằng sáng chế buộc các yêu sách của họ vào mộtkhu đất thông qua việc tuyên bố về các yêu sách đó.Những yêu sách đó đưa ra bằng văn bản ở những biêngiới “đất” của chúng nằm trong bức tranh công nghệ,sao cho những người khác có thể biết và bị ngáng trởkhỏi sự xâm phạm. Nếu kẻ thực dân khác đã buộcquyền của họ vào cùng y hệt khu đó thì kẻ thực dântới sau có thể không đặt ra được yêu sách đối vớikhu “đất” y hệt đó. Đổi lại cho việc trao một khu“đất” hoặc sự độc quyền đó, nhà nước đòi hỏirằng bên nguyên mở ra cách mà công nghệ của họ làmviệc sao cho những người khác trong cùng y hệt bức tranhcông nghệ có thể học được từ mà phát triển nhữngđổi mới sáng tạo khác có liên quan.
Tuy nhiên, để đảmbảo rằng những yêu sách là rõ ràng và chính xác, mộtphương pháp luận đặc biệt đã được phát triển, màcùng với ngôn ngữ kỹ thuật, có thể gây ra trong sựlẫn lộn khi mà phạm vi thực của sự bảo vệ đượcbằng sáng chế đó đưa ra cho độc giả ngẫu nhiên. Yếutố này cũng có thể dẫn tới những khó khăn trong việcđánh giá giá trị của một bằng sáng chế hoặc dãy cácbằng sáng chế, và liệu có hay không hành động đượcđảm bảo nếu một đối thủ cạnh tranh “vi phạm”trong một khu vực được bảo vệ. Vì thế một sự hiểubiết về một bức tranh công nghệ về các bằng sáng chếlà một quá trình phức tạp. Nếu thực tế là một cơsở dữ liệu bằng sáng chế duy nhất bao gồm hơn 70triệu bản ghi được bổ sung vào trong sự pha trộn, thìdễ nhận thấy vì sao sự đánh giá về một bức tranhcông nghệ là phức tạp hơn cho các bên thứ 3, bao gồmcả những người mới bước vào trong một thị trường.
The70-page study investigates all these with commendable thoroughness,and along the way has this rather nice encapsulation of how patentsare supposed to work:
Patentscontain a series of clear and precise statements setting out thescope of protection required by the applicant. These statements areknown as the claims. An oft-quoted definition of the claims is thatgiven by Lord Russell:
“Thefunction of the claims is to define clearly and with precision themonopoly claimed, so that others may know the exact boundary of thearea within which they will be trespassers. Their primary object isto limit and not to extend the monopoly. What is not claimed isdisclaimed.”
Muchlike a settler in a technology landscape, a patent applicant stakestheir claims to an area of land via the wording of the claims. Theclaims set out in writing whe-re the boundaries of their “land”lie in the technology landscape, so that others may know and beprevented f-rom trespass. If another settler has already staked theirright to the same area then the subsequent settler may not lay claimto the same “land”. In exchange for this granting of an area of“land” or monopoly, the state requires that the applicantsdisclose how their technology works so that others in the sametechnology landscape may learn f-rom and develop other relatedinventions.
However,in order to ensure that the claims are clear and precise, a specificterminology has been developed, which together with the technicallanguage, can result in confusion as to the true scope of theprotection provided by the patent to the casual reader. This elementcan also lead to difficulties in assessing the value of a patent orseries of patents, and whether or not action is warranted if acompetitor “trespasses” in a protected area. Thus anunderstanding of a technology landscape in terms of patents is acomplex process. If the fact that a single patent database containsover 70 million records is added into the mix, it is easy to see whythis assessment of a technology landscape is further complicated forthird parties, including new entrants into a marketplace.
Phép ẩn dụ của mộtbức tranh công nghệ này, được sử dụng lặp đi lặplại thông qua báo cáo, phơi bày ra một trong những vấnđề lớn với các bằng sáng chế phần mềm: chúng chỉkhông có những đường biên giới được xác định tốtvề dạng mà hệ thống bằng sáng chế đó giả địnhtrước. Như Bessen và Meurer giải thích trong cuốn sáchtuyệt vời của họ, Sự thất bại của Bằng sáng chế:Tòa Phúc thẩm Liên bang cho các vi mạch đã cho phép nhiềusự trừu tượng hóa hơn trong các bằng sáng chế phầnmềm so với dường như được đảm bảo bởi các họcthuyết của các bằng sáng chế đó. Quả thực, đượcnổi tiếng giữa các nhà khoa học máy tính rằng các côngnghệ phần mềm (các thuật toán, các cấu trúc hệ thống)có thể được trình bày theo nhiều cách thức khác nhau,và có thể khó để biết khi nào những đại diện cóthể lựa chọn đó là tương đương nhau. Điều này cónghĩa là coogn nghệ được yêu sách trong một bằng sángchế có thể khó mà phân biệt được với những lựachọn thay thế khác; có thể khó biết liệu một bằngsáng chế nào đó yêu sách một phát minh thì có khác vớinhững phát minh trước đó hay không, hay liệu một chươngtrình được cho là vi phạm có là khác với công nghệđược yêu sách hay không. Nếu các nhà khoa học máy tínhkhông thể rõ ràng thực hiện được những khác biệtđó, thì sẽ có ít hy vọng rằng quan tòa và ban bồi thẩmcó thể làm được tốt hơn.
Thismetaphor of a technology landscape, used repeatedly throughout thereport, exposes one of the big problems with software patents: theyjust don't have well-defined boundaries of the kind that the patentsystem presupposes. As Bessen and Meurer explain in their excellentbook, PatentFailure:
theCourt of Appeals for the Federal Circuit has tolerated moreabstractions in software patents than seems warranted by these patentdoctrines. Indeed, it is well known among computer scientists thatsoftware technologies (algorithms, system structures) can berepresented in many different ways, and it might be difficult to knowwhen al-ternative representations are equivalent. This means that thetechnology claimed in a patent can be difficult to distinguish f-romal-ternatives; it might be hard to know whether a given patent claimsan invention that is different f-rom previous inventions, or whetheran allegedly infringing program is different f-rom the claimedtechnology. If computer scientists cannot unambiguously make thesedistinctions, there is little hope that judges and juries can dobetter.
Trong thực tế, điềuđó giải thích vì sao bất kỳ ý định nào tránh khỏicác bụi rậm bằng sáng chế trong phần mềm đều có kếtcục bi đát: sẽ luôn bị chồng lấn vì sự trừu tượngkhó hiểu, và vì thế hay thay đổi - thiếu kiên định,bản chất tự nhiên của phần mềm có nghĩa là nó cóthể được áp dụng trong những tình huống không bao giờthấy trước được khi bằng sáng chế đã được trao,nhưng nó có thể bị chộp lấy bằng sự mô tả mập mờcủa nó.
Đây không phải làthứ gì đó mà bụi rậm bằng sáng chế hiện hành đềcập tới, hoặc có thể thậm chí được đánh giá. Vàtriệu chứng của toàn bộ sự thiếu hụt bất kỳ logicnội bộ lành mạnh nào đối với hệ thống bằng sángchế mà báo cáo đó bị ép phải kết luận:
Báo cáo này đã làmnảy sinh nhiều câu hỏi hơn so với những câu trả lờiđược đưa ra. Nó có thể được xem là không có sựđồng thuận rõ ràng về những điều khoản được sửdụng để mô tả những bụi rậm bằng sáng chế vànhững thực thể có liên quan với chúng. Bằng việc ápdụng những điều khoản đó một cách nhất quán đượchy vọng rằng sự tranh luận xa hơn về bất kỳ vấn đềnào có thể được tiến hành trong một sân chơi bìnhđẳng.
Những chỉ số đóxuất hiện để chỉ ra rằng có một khả năng các dạngkhác nhau của bụi rậm xảy ra nơi có những dạng côngnghệ khác nhau có liên kết tới mức độ chín muồi nàođó của không gian công nghệ đó. Các dạng tiềm tàng đócó thể được chia nhỏ hơn thành những lĩnh vực nơi màcó những số lượng lớn những tài sản bằng sáng chếnhỏ, hoặc những khu vực nơi mà có những số lượngnhỏ của những tay chơi lớn, mỗi trong số chúng tạo ramột bụi rậm mà bất kỳ kẻ mới vào nào cũng phảithương thảo để có khả năng vận hành. Nghiên cứu bổsung trong nhiều lĩnh vực công nghệ hơn sẽ phục vụ đểlàm sáng tỏ liên kết có khả năng này.
That,in essence, is why any attempt to avoid patent thickets in softwareis doomed: there will always be overlaps because the abstract, andtherefore protean, nature of software means that it can be applied insituations never envisaged when the patent was granted, but which maywell be caught by its vague description.
Thisis not something that the current patent thicket addresses, or maybeeven appreciates. And it's symptomatic of the overall lack of anyrigorous internal logic to the patent system that the report isforced to conclude:
Thisreport has raised more questions than provided answers. It can beseen that there is no clear consensus on terms used to describepatent thickets and the entities involved with them. By applyingthese terms consistently it is hoped that further debate on anyissues can be conducted on a level playing field.
Theindicators appear to show that there is a possibility of differentforms of thicket occurringwhe-re there are different types oftechnology linked to the degree of maturity of that technology space.These potential types can be subdivided into areas whe-re there arelarge numbers of small patent holdings, or areas whe-re there aresmall numbers of big players, each of which cre-ates a thicket thatany new entrant will have to negotiate in order to be able tooperate. Additional research into more technology areas will serve toelucidate this possible link.
Có bao nhiêu rào cảnlối vào, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa vànhỏ? Một lần nữa, công việc phân tích không phải làcông việc xa hơn và cuối cùng được yêu cầu, như đượcthảo luận trong các phần sau đó. Tuy nhiên, từ việcnhìn nhận lại vô số các tài liệu và việc tính tớinhững quan sát được thực hiện trong quá trình phân tíchcũng rõ là có vài vấn đề khác cần phải được cânnhắc.
Tôi nghĩ điều đócó nghĩa là họ không biết. Thực tế là thậm chí mộtmẩu công việc nghiêm trọng giống như báo cáo hiện tạicũng không thể trích ra bất kỳ điều gì hữu dụng từnhững sự kiện và con số của thế giới bằng sáng chếlà một chỉ số xa hơn về việc toàn bộ lĩnh vực tựdo với các bằng chứng này vẫn còn giữ nguyên. Thay vàođó, việc ra chính sách tiếp tục sẽ được dựa vàođức tin mơ hồ tốt nhất, và những sự đòi quyền lợivõ đoán tệ nhất. Không nghi ngờ gì hệ thống bằngsáng chế là trong một sự hỗn độn đó.
Isthere are barrier to entry, in particular for SMEs? Again, theanalysis work is not conclusive and further work is required, asdiscussed in the sections below. However, f-rom reviewing the vastliterature and taking into consideration observations made during theanalysis it is also clear that there are several other issues whichneed to be considered.
Ithink that means they don't know. The fact that even a serious pieceof work like the present report can't tease out anything useful f-romthe facts and figures of the patent world is a further indication ofhow evidence-free this whole area remains. Instead, policy makingcontinues to be based on vague beliefs at best, and dogmaticassertions at worst. No wonder the patent system is in such a mess.
Dịch tài liệu: LêTrung Nghĩa
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...