Hackingthrough the Software Patent Thickets
24May 2010, 17:45
byGlyn Moody
Những bụi rậm về bằng sáng chế phần mềm
1. Software Patent Thickets
2. Fast forward
3. A solution ..
Theo:http://www.h-online.com/open/features/Hacking-through-the-Software-Patent-Thickets-1006091.html
Bàiđược đưa lên Internet ngày: 24/05/2010
Lờingười dịch: Một bài phân tích tuyệt vời vềthực trạng hệ thống bằng sáng chế phần mềm trên thếgiới và tại nước Mỹ. Sẽ là một bài học tuyệt vờicho Việt Nam để chọn cho mình con đường đi đúng, nhưNew Zealand và hầu như toàn bộ Liên minh châu Âu - loạibỏ bằng sáng chế phần mềm ra khỏi danh sách những vấnđề được bảo vệ bởi pháp luật - vì lợi ích củachính quốc gia mình. Bài viết còn đưa ra một giải pháp,mà “Theo cách này, cộngđồng phần mềm tự do có thể cung cấp một trình diễnthực tế, mạnh về cách mà các bằng sáng chế bây giờ*làm suy giảm* sự đổi mới sáng tạo và gây hại chomọi người nhiều đến thế nào - sự ngược lại hoàntoàn của những gì mà những người ủng hộ chúng đangkêu ca”.
Hầu hết mọi ngườitrong cộng đồng luồn lách biết rõ rằng các bằng sángchế đại diện cho một trong những mối đe dọa nghiêmtrọng nhất đối với phần mềm tự do. Nhưng tình trạngthực sự còn tồi tệ hơn người tả tưởng, vì sựbùng nổ của những gì được gọi là các bụi rậm vềbằng sáng chế. Để hiểu vì sao những thứ này thực làtồi tệ, và vì sao chúng đại iện cho một vấn đề đặcbiệt đối với phần mềm, cần thiết phải quay trởngược về ban đầu của luật về bằng sáng chế.
Mostpeople in the hacking community are well aware that patents representone of the most serious threatsto free software. But the situation is actually even worse than itseems, thanks to the proliferation of what are called patentthickets. To understand why these are so bad, and why they representa particular problem for software, it is necessary to go back to thebeginning of patent law.
Nhưtên của chúng ngụ ý, các bằng sáng chế làm thứ gì đóđược “công nhận là sáng chế”, hoặc công khai, saocho những người khác có thể sử dụng và xây dựng trênmột sự đổi mới sáng tạo - nhưng chỉ sau một khoảngthời gian nào đó, trong khoảng thời gian đó thì ngườichủ của bằng sáng chể có một quyền độc quyền (dạngcủa quyền được bàn bên dưới). Quả thực, bản gốcban đầu của luật về bằng sáng chế của Anh – và củanhiều quốc gia nói tiếng Anh mà dựa luật của họ vàotruyền thống này - là Đạo luật về sự Độc quyềnnăm 1623.
Ýtưởng về các bằng sáng chế từng để đảm bảo rằngnhững phát minh mới không bị trở thành bí mật. Việccho phép một sự độc quyền được chính phủ đảm bảotrong một thời gian hạn chế từng là sự tiến bộ đốivới việc hé lộ những chi tiết về sự phát minh đốivới mỗi người. Ngay cả mặc dù các nhà độc quyềnluôn được xem như một Thứ Tồi Tệ đối với xã hội,thì tại thời điểm khi những sáng tạo còn khá hãn hữuthì nó có ý nghĩa để đưa ra sự khích lệ mạnh mẽnày. Không có nó, sự nguy hiểm từng là việc những trithức mới có thể vẫn bị khóa như những bí mật thươngmại, mà có thể gây thiệt hại cho toàn bộ sự tiến bộcủa công nghệ.
Điềuquan trọng để lưu ý là độc quyền được trao bởi cácchính phủ không phải là một quyền để sử dụng sángtạo đó; như được giải thích bởi Wikipedia:
Astheir name implies, patents are about making something “patent”,or public, so that others can use and build on an invention – butonly after a certain period, during which time the patent-holder hasa monopoly right (what kind of right is discussed below). Indeed, theorigin of British patent law – and of many anglophone countriesthat base their law on this tradition – is the 1623 Statuteof Monopolies.
Theidea of patents was to ensure that new discoveries were not keptsecret. Allowing a time-limited government-granted monopoly was thequidpro quofor revealing the details of the discovery to everyone. Even thoughmonopolies have always been regarded as a Bad Thing for society, at atime when inventions were relatively rare it made sense to offer thispowerful incentive. Without it, the danger was that new knowledgewould remain locked away as trade secrets, which would have beendetrimental to the overall advancement of technology.
It'simportant to note that the monopoly granted by governments is not aright to use that invention; as Wikipedia explains:
Mộtbằng sáng chế không phải là một quyền để thực hànhhoặc sử dụng sáng chế. Đúng hơn là, một bằng sángchế cung cấp quyền để loại bỏ những người kháckhỏi việc tạo ra, sử dụng, bán, chào bán, hoặc nhậpsáng chế được trao bằng đối với điều khoản củabằng sáng chế đó, mà nó thường là 20 năm từ ngàyđược lưu trữ [3] phải thanh toán phí duy trì.
Nghĩalà, trong trái tim của bằng sáng chế là sức mạnh loạibỏ những người khác khỏi việc sử dụng nó. Điềunày có một hệ quả rất quan trọng:
Tuynhiên, một bằng sáng chế đang có quyền loại trừ thìkhông cần thiết phải trao cho người chủ sở hữu bằngsáng chế đó cái quyền khai thác bằng sáng chế. Ví dụ,nhiều phát minh là những cải tiến của những phát minhtrước đó mà có thể vẫn còn chịu ảnh hưởng củabằng sáng chế của ai đó khác. Nếu một nhà phát minhđem thiết kết bẫy chuột hiện hành và được cấp bằngsáng chế, bổ sung một tính năng mới để làm thành mộtbẫy chuột được cải tiến, và giành được một bằngsáng chế về sự cải tiến đó, thì anh hoặc chị ta chỉxây dựng một cách hợp pháp cái bẫy chuột được cảitiến của mình với sự cho phép từ người giữ bằngsáng chế của cái bẫy chuột ban đầu, giả thiết làbằng sáng chế đó vẫn còn có hiệu lực. Mặc khác,người chủ sở hữu của bằng sáng chế được cảitiến có thể loại trừ người chủ của bằng sáng chếban đầu khỏi việc sử dụng sự cải tiến này.
Trongnhững ngày đầu của các bằng sáng chế, điều nàykhông phải là một vấn đề gì lớn lao. Hầu hết cácsáng chế đã tự đứng được, và vì thề đã khôngtương tác với những bằng sáng chế trước đó (khôngít hơn vì đã có quá ít các sáng kiến). Nhưng với thờigian, ngày càng có nhiều bằng sáng chế đã có vấn đề,nên xu hướng tương tác gia tăng, thường đòi hỏi quyềntừ những giữ các bằng sáng chế trước đó để triểnkhai chúng.
Mộtyếu tố quan trọng khác là sự gia tăng theo tính phứctạp của những sáng kiến qua năm tháng. Trong khi nhữngsáng chế đầu tiên từng là cho toàn bộ một chiếc máyhoặc toàn bộ một qui trình, thì sau này những sáng kiếnthường có xu hướng chỉ là cho một số phần của mộtchiếc máy hoặc qui trình (vì những ý tưởng và kỹthuật chính từng hoặc là đã được cấp bằng sángchế, hoặc bây giờ đang nằm trong miền công cộng).
Apatent is not a right to practice or use the invention. Rather, apatent provides the right to exclude others f-rom making, using,selling, offering for sale, or importing the patented invention forthe term of the patent, which is usually 20 years f-rom the filingdate [3] subject to the payment of maintenance fees.
Thatis, at the heart of the patent is the power to exclude others f-romusing it. This has a very important consequence:
Apatent being an exclusionary right does not, however, necessarilygive the owner of the patent the right to exploit the patent. Forexample, many inventions are improvements of prior inventions thatmay still be covered by someone else's patent. If an inventor takesan existing, patented mouse trap design, adds a new feature to makean improved mouse trap, and obtains a patent on the improvement, heor she can only legally build his or her improved mouse trap withpermission f-rom the patent holder of the original mouse trap,assuming the original patent is still in force. On the other hand,the owner of the improved mouse trap can exclude the original patentowner f-rom using the improvement.
Inthe early days of patents, this wasn't much of a problem. Mostinventions were self-standing, and therefore didn't interact withearlier patents (not least because there were so few of them). But astime went on, and more patents were issued, so the tendency tointeract increased, often requiring permission f-rom holders ofpre-existing patents in order to implement them.
Anotherimportant factor was the increase in complexity of inventions overthe years. Whe-reas the first patents were for an entire machine orcomplete process, later inventions necessarily tended to be for partsof a machine or process (because the key ideas and techniques wereeither already patented, or by now in the public domain).
Đónxem: Tiến lên nhanh chóng
Dịchtài liệu: Lê Trung Nghĩa
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...