Bảo vệ các tiêu chuẩn mở: FSFE bác lại lý luận sai của BSA gửi tới EC

Thứ hai - 25/10/2010 04:49

DefendingOpen Standards: FSFE refutes BSA's false claims to EuropeanCommission

Author:Karsten Gerloff, Carlo Piana and Sam TukePublished: 2010-10-15

Theo:http://www.fsfe.org/projects/os/bsa-letter-analysis.html.en

Bài đượcđưa lên Internet ngày: 15/10/2010

Lờingười dịch: Đây là những lý lẽ của Quỹ Phần mềmTự do châu Âu - FSFE bẻ lại từng lý lẽ của BSA trongvụ BSA đang gây sức ép lên Ủy ban châu Âu EC về cáctiêu chuẩn mở trong Khung Tương hợp châu Âu phiên bản 2(EIFv2). Đây là những lý lẽ tuyệt vời để trang bịcho chúng ta đối đáp với BSA, IIPA và những kẻ tươngtự, những kẻ luôn muốn đưa việc phải có chi phí bảnquyền cho các bằng sáng chế phần mềm vào trong các tiêuchuẩn mở nhằm khóa trói người sử dụng và cản trởđổi mới sáng tạo trong phần mềm, những kẻ luôn mồmnói về sự công bằng trong đối xử nhưng lại luôn muốnvứt bỏ các giấy phép của thế giới phần mềm tự do,những giấy phép mà hàng trăm ngàn dự án phần mềm tựdo đang mang theo, hàng chục triệu người sử dụng trênthế giới đang sử dụng. Vụ Báocáo đặc biệt 301 hồi đầu năm 2010 có liên quan tớiViệt Nam, thậm chí tới nướcMỹ còn không chấp nhận nổi những lý lẽ của BSAvà IIPA, vậy mà họ vẫn cứ cố tọng chúng vào mồmnhững người khác, như bài viết này cũng nhắc tới:“Chúng tôi lưu ý rằng tại Mỹ, những lolắng tương tự đã được đệ trình lên Đại diệnThương mại Mỹ trong sự chuẩn bị cho báo cáo Đặc biệt301 năm 2010 của Mỹ về những cản trở thương mại. Đạidiện Thương mại Mỹ chọn không đưa vào những lo lắngnày vào báo cáo, rõ ràng thể hiện rằng chính phủcủa Mỹ xem điều này là không phải một vấn đề”.Nếu bạn thực sự muốn tự do, muốn không bị cùm xích,để đổi mới sáng tạo thì rất nên học những lý lẽnhư được trình bày trong bài viết này để chống lạinhững lý lẽ của BSA và những kẻ đồng lõa với họ.

Liên minh Phần mềmDoanh nghiệp (BSA) đang ép Ủy ban châu Âu (EC) loại bỏnhững vết tích cuối cùng hỗ trợ cho các Tiêu chuẩn Mở(TCM) từ phiên bản mới nhất các khuyến cáo về tínhtương hợp của Liên minh châu Âu (EU), Khung Tương hợpchâu Âu (EIF).

Quỹ Phần mềm Tựdo châu Âu (FSFE) đã có được một bản sao của bức thưđược gửi cho EC của BSA tuần trước. Trong các đoạnsau chúng tôi phân tích những lý lẽ của BSA và giảithích vì sao những kêu ca của họ là không đúng, và vìsao các TCM là chìa khóa cho tính tương hợp và sự cạnhtranh tại thị trường phần mềm châu Âu. Chúng tôi đãchia sẻ phân tích này với EC [theo 8 điểm sau].

  1. Việc cấp phép bằng sáng chế tự do về chi phí bản quyền mở ra sự tham gia và khuyến khích sự đổi mới sáng tạo.

  2. Các tiêu chuẩn ví dụ của BSA là không phù hợp với lĩnh vực phần mềm.

  3. Việc cấp phép theo FRAND trong các tiêu chuẩn về phần mềm là không công bằng và phân biệt đối xử.

  4. BSA không đại diện cho thậm chí thành viên của riêng liên minh này, ít nhiều đối với toàn bộ nền công nghiệp phần mềm.

  5. FRAND không tương thích với hầu hết các giấy phép của phần mềm tự do (PMTD).

  6. Ưu tiên được khuyến cáo cho các TCM hoàn toàn không liên quan tới vị thế thương thảo của EU mặt đối mặt với Trung Quốc.

  7. Những đặc tả kỹ thuật tự do không hạn chế sẽ khuyến khích tiêu chuẩn hóa, cạnh tranh và tính tương hợp.

  8. Các khuyến cáo.

The Business SoftwareAlliance (BSA) is pressuring the European Commission to remove thelast vestiges of support for Open Standards f-rom the latest versionof the EU's interoperability recommendations, the EuropeanInteroperability Framework.

FSFEhas obtained a copy of aletter sent to the Commission by the BSA last week. In thefollowing paragraphs we analyse the BSA's arguments and explain whytheir claims are false, and why Open Standards are key tointeroperability and competition in the European software market. Wehave sharedthis analysis with the European Commission.

  1. Royalty-free patent licensing opens up participation and promotes innovation

  2. The BSA's example standards are irrelevant to the software field

  3. (F)RAND licensing in software standards is unfair and discriminatory

  4. BSA not representative of even its own membership, much less of software industry as a whole

  5. (F)RAND incompatible with most Free Software licenses

  6. Recommended preference for Open Standards is entirely unrelated to EU's negotiating position vis-a-vis China

  7. Restriction-free specifications will promote standardisation, competition and interoperability

  8. Recommendations

Việccấp phép bằng sáng chế tự do đối với chi phí bảnquyền mở ra sự tham gia và khuyến khích đổi mới sángtạo.

Trong bứcthư của mình, BSA viện lý rằng “Nếu EU áp dụng mộtưu tiên cho các đặc tả tự do về bằng sáng chế thìđiều này làm xói mòn những sáng kiến mà các hãng phảiđóng góp những đổi mới sáng tạo hiện đại cho việctiêu chuẩn hóa - tạo ra những đặc tả ít đổi mớisáng tạo hơn tại châu Âu, và các sản phẩm ít cạnhtranh tại châu Âu”.

Thực sựthì điều này phản ánh một sự thiếu hiểu biết to lớnvề các tiêu chuẩn, vai trò của chúng và công việc củachúng.

  1. Những điều kiện cấp phép với chi phí bản quyền bằng 0 không cản trở các công nghệ được cấp bằng sáng chế được đưa vào trong các tiêu chuẩn. Thay vì người đóng góp được yêu cầu phải tránh ép buộc quản lý các chi phí bản quyền trong các triển khai cài đặt.

  2. Nền tảng công nghệ thành công nhất trên trái đất duy nhất, Internet, được xây dựng trên các tiêu chuẩn mà từng hoàn toàn được làm cho sẵn sàng theo các điều kiện cấp phép chi phí bản quyền bằng 0. Quả thực W3C, cơ quan thiết lập tiêu chuẩn (SSO) mà chi phối các tiêu chuẩn web thông qua sự đồng thuận đã phê chuẩn một “chính sách IPR” chi phí bản quyền bằng 0, nơi mà các công nghệ có chứa chi phí bản quyền được cho phép đóng góp chỉ trong một cơ sở rất ngoại lệ. Thay vì bóp nghẹt hoạt động sáng tạo, như BSA nói, điều này đã biến Internet thành một cái lò cho đổi mới sáng tạo. Quả thực, đây chính là điều tự nhiên cơ bản của các tiêu chuẩn mà chúng làm ổn định cho một nền tảng mà trên đỉnh của nó các đối thủ cạnh tranh có thể tạo ra những giải pháp đổi mới sáng tạo và tương hợp với nhau được. [1]

  3. Đối nghịch với kêu ca của BSA, các chính sách cấp phép bằng sáng chế chi phí bản quyền bằng 0 mở ra sự tham gia trong việc thiết lập các tiêu chuẩn cho phần mềm đối với nhóm những người chơi và những người triển khai trong thị trường là rộng lớn nhất có thể được. Kết quả là, các tiêu chuẩn cho phần mềm vượt ra khỏi các tổ chức thiết lập tiêu chuẩn với các chính sách cấp phép bằng sáng chế chi phí bản quyền bằng 0 như W3C đã từng được chấp nhận rộng rãi, với tiêu chuẩn HTML chỉ là ví dụng nổi tiếng nhất mà thôi.

Từ mộtviễn cảnh chính sách rộng lớn hơn, cũng có thể hỏirằng những nhà phát minh sáng chế, những người đãnhận được một sự khích lệ thông qua một bằng sángchế, có cần phải được khích lệ xa hơn nữa hay khôngbằng việc để bằng sáng chế đó được đưa vào mộttiêu chuẩn. Một bằng sáng chế không tương tương vớimột quyền cho một dòng doanh thu được đảm bảo.

Royalty-freepatent licensing opens up participation and promotes innovation

Inits letter, the BSA argues that "[I]f the EU adopts a preferencefor royalty/patent-free specifications, this undermines theincentives that firms have to contribute leading-edge innovations tostandardization - resulting in less innovative Europeanspecifications, and less competitive European products."

Actuallythis reflects a gross misconception of standards, their role andtheir working.

  1. Zero-royalty licensing conditions do not prevent patented technologies to be included in standards. Rather the contributor is required to avoid imposing running royalties on implementations.

  2. The single most successful technology platform on Earth, the Internet, is built on standards that have been made fully available under zero-royalty licensing conditions. Indeed the W3C, the standard setting organization (SSO) that governs the web standards has through consensus adopted a zero-royalty "IPR policy", whe-re royalty bearing technologies are allowed to be contributed only on a very exceptional base. Rather than stifling inventive activity, as the BSA claims, this has turned the Internet into a hotbed of innovation. Indeed, it is the very nature of standards that they stabilise a platform on top of which competitors can cre-ate innovative and interoperable solutions1.

  3. Contrary to the BSA's claim, zero-royalty patent licensing policies open up participation in software standard-setting to the widest possible group of market players and implementers. As a result, software standards coming out of standard-setting organisations with zero-royalty patent licensing policies such as the W3C have been widely adopted, with the HTML standard only being the most prominent example.

F-roma broader policy perspective, it is also questionable thatinnovators, who are already receiving an incentive through a patent,would need to be further incentivised by having that patent includedin a standard. A patent does not equal a right to a guaranteedrevenue stream.

Các tiêuchuẩn ví dụ của BSA là không phù hợp với lĩnh vựcphần mềm.

BSA việnlý rằng “nhiều [bất kỳ] đặc tả mở được triểnkhai rộng rãi nhất ngày nay kết hợp các đổi mới sángtạo được cấp bằng sáng chế mà đã được sáng tạora bởi các hãng thương mại... bao gồm WiFi, GSM và MPEG”.

Đây làmột mưu toan để tạo ra một sự nước đôi sai lầmgiữa việc sáng tạo ra công nghệ được cấp bằng sángchế của các công ty “thương mại”, đối nghịch vớinhững sáng tạo “không thương mại” mà không đượccấp bằng sáng chế. Trong thực tế một lợi ích lớncủa công nghệ hiện đại không được cấp bằng sángchế xuất phát từ các công ty thương mại tạo nên cáctiêu chuẩn được triển khai toàn cầu (như HTML5), trongkhi tiếp tục cung cấp cho các nhà sáng chế của họdoanh thu. Không có sự phân chia như vậy, hoặc thương mạihoặc tư tưởng, giữa các công nghệ phần cứng và phầnmềm mà chúng được cấp bằng sáng chế, và những thứkhông được cấp bằng sáng chế. Vâng BSA ngụ ý mộtcách ly gián là có một sự khác biệt giữa các phươngpháp kinh doanh truyền thống và được chấp nhận, màchúng liên quan tới các bằng sáng chế, và những tổchức phi thương mại phi kinh doanh, mà họ có liên quan tớicông nghệ tự do không có bằng sáng chế. Đưa ra sựthịnh hành ngày một gia tăng của PMTD tại thị trườngcác dịch vụ IT châu Âu, như một lời kêu là hoàn toànphi lý.

Các tiêuchuẩn mà BSA trích dẫn như là những ví dụ (với ngoạilệ của MPEG [2]) có liên quan tới các công nghệ dựa vàophần cứng. Kinh tế của thị trường phần cứng rấtkhác với thị trường phần mềm. Trong khi đầu vào củathị trường phần cứng đòi hỏi những đầu tư rấtđáng kể, thì các công ty phần mềm có thể được bắtđầu với số vốn rất nhỏ. Việc đòi hỏi công ty khởinghiệp về phần mềm như vậy phải trả tiền cho chi phíbản quyền cho việc triển khai các tiêu chuẩn phần mềmcó thể làm dấy lên đáng kể các rào cản cho đầu vàocủa thị trường, làm giảm sự đổi mới sáng tạo vàngăn trở sự cạnh tranh, cũng như nâng giá thành đốivới những người tiêu dùng (bao gồm cả các tổ chứccủa khu vực nhà nước).

Tuy nhiên,đối với phần mềm, rõ ràng là việc cho phép các bằngsáng chể được đưa vào trong các tiêu chuẩn phần mềmtheo các điều khoản của FRAND sẽ làm gia tăng một cáchquá đáng và không cần thiết những rào cản để vàotrong thị trường phần mềm châu Âu, làm cho nền kinh tếICT của châu Âu ít cạnh tranh hơn.

TheBSA's example standards are irrelevant to the software field

TheBSA argues that "[m]any of today's most widely-deployed openspecifications incorporate patented innovations that were invented bycommercial firms...including WiFi, GSM , and MPEG." 

Thisis an attempt to cre-ate a false dichotomy between "commercial"companies inventing patented technology, in contrast to"non-commercial" inventions which are not patented. Inreality a great wealth of unpatented modern technology originating incommercial companies constitute globally implemented standards(such as HTML5), whilst continuing to provide their creatorswith revenue. There is no such divide, either economical orideological, between hardware and software technologies whic-hare patented, and those which are not. Yet the BSA divisively impliesthere is a difference between conventional and accepted businessmethods, which they associate with patents, and un-businesslikenon-commercial organisations, which they associate with patent-freetechnology. Given the increasing prevalence of Free Software inEurope's IT service market, such a claim is plainly false.

Thestandards which the BSA cites as examples (with the exception ofMPEG2)relate to hardware based technologies. The economics of the hardwaremarket are very different f-rom the software market. While entry intothe hardware market requires very substantial investments, softwarecompanies can be started with very small amounts of capital.Requiring such software start-up to pay royalties for implementingsoftware standards would significantly raise the barriers to marketentry, reduce innovation and hinder competition, as well as raisingprices for consumers (including public sector organisations).

Forsoftware, however, it is clear that allowing patents to be includedin software standards on (F)RAND terms will unduly and unnecessarilyincrease the barriers to entry into the European software market,making Europe's ICT economy less competitive.

Việccấp phép theo FRAND trong các tiêu chuẩn phần mềm làkhông công bằng và phân biệt đối xử.

BSA việnlý rằng “Những đòi hỏi rằng một đặc tả mở là“có thể triển khai được một cách tự do” và có khảnăng được chia sẻ và sử dụng lại được là không rõràng, và gợi ý rằng tiêu chuẩn phải là tự do về cácquyền sở hữu trí tuệ (IPR)”.

BSA xa hơnviện lý rằng [FRAND đảm bảo rằng] những người triểnkhai một tiêu chuẩn có thể sử d ụng những đổi mớisáng tạo đó trong các điều khoản công bằng. Nó chophép các nhà sáng tạo lấy một phí chấp nhận đượckhi các công nghệ của họ được kết hợp vào trong cácđặc tả kỹ thuật. “Trong các tiêu chuẩn của phầnmềm, các điều khoản của FRAND trên thực tế phân biệtđối xử chống lại PMTD và bất kỳ mô hinh kinh doanh nàodựa trên nó. Hầu hết các giấy phép của PMTD được sửdụng một cách rộng rãi không cho phép ép buộc nhữngđiều kiện bổ sung lên những người nhận ở xuôi dòngbên dưới. FRAND có thể còn yêu cầu những điều kiệnnhư vậy phải được áp đặt, thường ở dạng của chiphí bản quyền đang chạy, làm cho các chính sách cấpphép của FRAND không tương thích với PMTD. Ở những nơicó quan tâm tới các tiêu chuẩn phần mềm, thì điều đólàm cho tiếp cận của FRAND vừa không hợp lý vừa phânbiệt đối xử”.

Ngượclại, “chi phí bản quyền bằng 0” không loại trừnhững triển khai cài đặt phần mềm sở hữu độc quyền(và thậm chí được cấp bằng sáng chế nặng). Quảthực “chi phí bản quyền bằng 0” ngụ ý rằng nếucác công nghệ nhất định nào đó là bắt buộc bởi mộttiêu chuẩn,, thì chúng phải là sẵn sàng cho tất cả mọingười mà không có yêu cầu các chi phí bản quyền đangchạy. Trong khi đó những triển khai cài đặt có thểđược hân phối theo bất kỳ giấy phép được đưa ranào và bao gồm bất kỳ công nghệ nào, miễn là tiêuchuẩn đó được tôn trọng.

Tiêu chuẩnHTML tự do về phí bản quyền, ví dụ, đã và đang đượctriển khai trong hàng đống các trình duyệt, cả PMTD vàsở hữu độc quyền. Điều này rõ ràng thể hiện rằngmột tiêu chuẩn phần mềm tự do về chi phí bản quyềncó thể cho phép áp dụng rộng rãi, và dẫn dắt đổimới sáng tạo qua sự cạnh tranh.

(F)RANDlicensing in software standards is unfair and discriminatory

TheBSA argues that "[R]equirements that an open specification be"freely implement[able]" and capable of being shared andre-used are ambiguous, and suggest that the standard must be free ofintellectual property rights (IPR)".

TheBSA further argues that "[FRAND ensures that] implementers of astandard can utilize those innovations on fair terms. It allowsinventors to c-harge a reasonable fee when their technologies areincorporated into specifications[.]" In software standards,(F)RAND terms in fact discriminate against Free Software and anybusiness model based on it. Most widely used Free Software licensesdo not allow for imposing additional conditions upon downstreamrecipients. Yet (F)RAND would require such conditions to be imposed,usually in the form of running royalties, rendering (F)RAND licensingpolicies incompatible with Free Software. Whe-re software standardsare concerned, this renders the (F)RAND approach neither reasonablenor non-discriminatory.

Conversely,"zero-royalty" does not exclude proprietary (and evenheavily patented) implementations. Indeed "Zero-royalty"means that if certain technologies are mandated by a standard, theymust be available to everybody without requiring running royalties.Meanwhile the implementations can be distributed under any givenlicense and include any technology, provided that the standard isrespected.

Theroyalty-free HTML standard for example has been implemented in aplethora of browsers, both Free Software and proprietary. Thisclearly demonstrates that a royalty-free software standard can enablewidespread adoption, and drive innovation through competition.

BSA khôngđại diện cho thậm chí thành viên của riêng liên minhnày, ít nhiều đối với toàn bộ nền công nghiệp phầnmềm.

BSA lý luậnrằng “EIF có thể được đọc để có nghĩa là hầuhết các công ty nước ngoài và châu Âu đổi mới sángtạo sẽ không chào mừng để tham gia trong các quá trìnhtiêu chuẩn nếu họ sở hữu các bằng sáng chế trong cáccông nghệ phù hợp và tìm kiếm sự đền bù cho nhữngđổi mới sáng tạo của họ nếu những bằng sáng chếnày được làm thành một phần của tiêu chuẩn”. BSAtiếp đó nói rằng “Những người giữ tiền cược nhậnthức được mối liên kết quan trọng giữa IPR và sựtiêu chuẩn hóa - và cũng nhận thức được rằng cáctiêu chuẩn dựa trên FRAND là mềm dẻo cao và có thểđược triển khai trong một dải rộng các giải pháp,nguồn mở và sở hữu độc quyền”.

Đốinghịch với kêu ca của BSA để trình bày một quan điểmthống nhất của nền công nghiệp phần mềm, chúng tôilưu ý rằng ECIS, mà được hình thành bởi những ngườigiữ tiền cược quan trọng của giới công nghiệp (mộtsố trong đó cũng là những thành viên của BSA) thì nóingược lại [3]. Bất chấp có một hồ sơ bằng sáng chếlớn, các thành viên của ECIS muốn các tiêu chuẩn vìtính tương hợp của phần mềm để giữ không bị cảntrở đối với những yêu cầu chi phí bản quyền bằngsáng chế đang chạy [4]. Gọi ra đây chỉ một ví dụ,Google đã đóng góp mạnh vào các tiêu chuẩn chi phí bảnquyền bằng 0 bằng việc đưa ra một lựa chọn thay thếcho MPEG được giới công nghiệp hỗ trợ.

BSAnot representative of even its own membership, much less of softwareindustry as a whole

TheBSA argues that "[EIF] could be read to mean that the mostinnovative European and foreign companies are not welcome toparticipate in standards processes if they own patents in therelevant technologies and seek compensation for their inventions ifthose patents are made part of the standard."

TheBSA further claims that "[S]takeholders [recognize] theimportant link between IPR and standardization - and also [recognize]that FRAND-based standards are highly flexible and can be implementedin a broad range of solutions, open source and proprietary".

Contraryto the BSA's claim to represent a unified position of the softwareindustry, we note that ECIS, which is formed by important industrystakeholders (some of which are also members of BSA) say theopposite3.Despite having a large patent portfolio, ECIS' members want standardsfor software interoperability to remain unencumbered of runningpatent royalty requirements []. To name just one example, Google hasheavily contributed to zero-royalties standards by offering anindustry-backed al-ternative to MPEG.

FRAND khôngtương thích với hầu hết các giấy phép của PMTD

BSA nóirằng “hầu hết các giấy phép phần mềm nguồn mởhoàn toàn là tương thích với việc cấp phép dựa vàoFRAND”.

Bằng bấtkỳ đo đếm hợp lý nào (hoặc dựa vào chất lượng mãnguồn có sẵn hoặc tầm quan trọng của nó, hoặc cả 2)hầu hết các giấy phép của phần mềm tự do nguồn mởlà:

  1. GNU GPL và LGPL

  2. Mozilla Public License

  3. Apache Public License

  4. BSD/MIT và các giấy phép siêu cho phép khác

  5. EUPL

Tất cảchúng, với chỉ đáng tranh cãi như ngoại lệ không chắcchắn của chủng loại siêu cho phép, rõ ràng là khôngtương thích với một chế độ mang chi phí bản quyềnbằng sáng chế. Theo những con số thống kê được đưara bởi Black Duck Software, hơn 85% các dự án PMTD đượcphân phối theo các giấy phép mà là không tương thích vớicác chế độ có chi phí bản quyền về bằng sáng chế.Giấy phép GPL được chứng minh là giấy phép PMTD đượcsử dụng rộng rãi nhất cho tới nay, được tính cho hầunhư một nửa số các dự án. Việc đưa vào các côngnghệ được cấp bằng sáng chế trong các sản phẩmPMTD, nơi mà nó là có khả năng, đòi hỏi những ngườitriển khai phải trộn các phần sở hữu độc quyền vớiPMTD theo các cách thức lúng túng vụng về. Trong nhữngtrường hợp như vậy mã nguồn kết quả nhất thiết làphần mềm sở hữu độc quyền [5].

(F)RANDincompatible with most Free Software licenses

TheBSA claims that "most OSS license are entirely compatible withFRAND-based licensing."

Byany reasonable metric (whether based upon the quantity of codeavailable or the importance of it, or both) the most relevantFree (open source) Software licenses are:

  1. GNU GPL and LGPL

  2. Mozilla Public License

  3. Apache Public License

  4. BSD/MIT and other ultrapermissive licenses

  5. EUPL

Allof which, with the only arguable but uncertain exception of theultrapermissive category, are clearly incompatible with a patentroyalty bearing regime. According to the statistics released by BlackDuck Software, more than 85% of Free Software projects aredistributed under licenses that are incompatible with patentroyalty-bearing regimes. The GNU General Public License (GPL) isdemonstrated to be the most widely used Free Software license by far,accounting for almost half of all projects. Including patentedtechnologies in Free Software products, whe-re it is possible,requires implementers to mix proprietary parts with Free Software inawkward ways. In such cases the resulting code is necessarilyproprietary software5.

Ưu tiênđược khuyến cáo cho các tiêu chuẩn mở là hoàn toànkhông có liên quan gì tới quan điểm thương thảo của EUmặt đối mặt với Trung Quốc

BSA nóirằng “Sự tối nghĩa không rõ ràng của ưu tiên đượcđề xuất của EIF sẽ không ngạc nhiên thỏa hiệp khảnăng của EC để duy trì sự bảo vệ mạnh mẽ của nhữngngười nắm quyền IPR của châu Âu [chống lại các mốiđe dọa của Trung Quốc]”. Kêu rằng một khuyến cáo thểhiện sự ưu tiên cho những đặc tả mở về sử dụngcác đặc tả phần mềm mở trong khu vực nhà nước khôngmang theo bất kỳ điều gì vào quan điểm của EC. Hơnnữa, nó mang theo sự lặp đi lặp lại rằng các tiêuchuẩn “chi phí bản quyền bằng 0” không xung đột vớibất kỳ “sự bảo vệ mạnh mẽ nào” của các bằngsáng chế, bản quyền và thương hiệu.

Chúngtôi lưu ý rằng tại Mỹ, những lo lắng tương tự đãđược đệ trình lên Đại diện Thương mại Mỹ trong sựchuẩn bị cho báo cáo Đặc biệt 301 năm 2010 của Mỹ vềnhững cản trở thương mại. Đại diện Thương mại Mỹchọn không đưa vào những lo lắng này vào báo cáo, rõràng thể hiện rằng chính phủ của Mỹ xem điều này làkhông phải một vấn đề. Trong khi những kêu ca như vậycó thể được làm trong thời gian mà những nỗ lực đểgây ảnh hưởng tới chính sách nhà nước, thì có mộtsự thiếu vắng được ghi dấu về những mưu toan đểcó được những ưu tiên như vậy được loại bỏ bởicác biện pháp về pháp lý - có thể đoán chừng vì nhữngkẻ tiến hành những kêu ca này hiểu rõ rằng họ khôngcó hậu thuẫn trong thực tế.

Recommendedpreference for Open Standards is entirely unrelated to EU'snegotiating position vis-a-vis China

TheBSA claims that "[t]he ambiguity of the EIF's proposedpreference will no doubt compromise the Commission's ability tomaintain its robust defence of Europe's IPR holders [against Chinesethreats]."

Claimsthat a recommendation to express preference for open specificationswill weaken the EU's negotiating position vis-a-vis China are plainlyfalse. Recommendations regarding the use of open softwarespecifications in the public sector have no bearing whatsoever on theCommission's stance. Moreover, it bears repeating that "zeroroyalty" standards do not contradict any "robust defence"of patents, copyright and trademarks.

Wenote that in the United States, similar concerns were submitted tothe US Trade Representative in the preparation for the 2010 USSpecial 301 report on obstacles to trade. The US Trade Representativechose not to include those concerns in the report, clearlydemonstrating that the government of the United States considers thisa non-issue. While such claims may be made during efforts toinfluence public policy, there is a marked absence of attempts to getsuch preferences removed by legal means - presumably because thosemaking these claims know full well that they have no backing in fact.

Nhữngđặc tả kỹ thuật tự do không hạn chế sẽ khuyếnkhích tiêu chuẩn hóa, cạnh tranh và tính tương hợp.

BSA nóirằng “Ưu tiên được đề xuất của EIF cho những đặctả tự do đối với sở hữu trí tuệ sẽ làm xói mòn …sự tiêu chuẩn hóa, tính cạnh tranh và tính tương hợpvề lâu dài”.

Chúng đangsẽ không có khả năng để xác định những gì BSA ngụý với những đặc tả “tự do đối với sở hữu trítuệ”, mặc dù chúng ta tin tưởng rằng những ngôn từnhư vậy gợi ý một sự hiểu biết không đủ về quitrình thiết lập tiêu chuẩn về phần của BSA.

Kêu ca rằngngôn từ hiện hành của EIF có thể làm xói mòn tínhtương hợp đơn giản là không thể chấp nhận được.Nó tuôn ra từ những giả thiết không được chứng minhrằng chúng tôi đã chỉ ra sẽ là sai lầm trong thảo luậnở trên. Hiện hành, những hiệu ứng khóa trói gây ra từviệc sử dụng các chương trình và các định dạng tệp sở hữu độc quyền thường ngăn trở các cơ quan hànhchính nhà nước khỏi việc tự do chọn các giải phápcông nghệ thông tin của họ. Thay vào đó, họ giữanguyên sự trói buộc tới một nhà cung cấp. Những khókhăn của Hội đồng thành phố Brighton và thị trấnSolothurn của Thụy Sỹ (chỉ nêu tên 2 ví dụ từ nhữngtháng gần đây) cùng với vô số các cơ quan nhà nướckhác trong việc chuyển đổi từ một giải pháp công nghệthông tin này sang giải pháp khác minh họa cách mà sựkhóa trói vào nhà cung cấp đã gây ra bởi các tiêu chuẩnphần mềm được gây cản trở bằng các bằng sáng chếđã trói người sử dụng vào những giải pháp kém cỏidưới xú, với giá thành ngất trời đối với nhữngngười trả thuế.

Ngượclại, các tiêu chuẩn phần mềm mà có thể được triểnkhai mà không có những hạn chế sẽ cho phép nhiều triểnkhai cài đặt cạnh tranh tương hợp được với nhau. Theothiết lập này, những lợi nhuận của độc quyền đốivới một thiểu số rất ít những tay chơi lớn sẽ đượcthay thế bằng một thị trường mạnh mẽ, đổi mớisáng tạo được dẫn dắt bởi sự cạnh tranh khốc liệt.Điều này tạo ra trong những giải pháp và dịch vụ tốthơn với giá thành thấp hơn.

Restriction-freespecifications will promote standardisation, competition andinteroperability

TheBSA claims that "the EIF's proposed preference for IP-freespecifications will undermine...standardization, competitiveness andinteroperability over the longer term."

Weare unable to determine what the BSA means by "IP-free"specifications, although we do believe that such wording suggests aninsufficient understanding of the standard-setting process on theBSA's part.

Theclaim that the current wording of EIF could undermineinteroperability is simply unacceptable. It flows f-rom unprovenassumptions that we have shown to be false in the above discussion.Currently, lock-in effects resulting f-rom the use of proprietaryprograms and file formats often prevent public administrations f-romfreely choosing their IT solutions. Instead, they remain tied to aparticular vendor. The difficulties of Brighton City Council and theSwiss canton of Solothurn (to name only two examples f-rom recentmonths) along with numerous other public bodies in migrating f-rom oneIT solution to another illustrate how vendor lock-in caused bypatent-encumbered software standards ties users to suboptimalsolutions, at great cost to taxpayers.

Conversely,software standards which can be implemented without restrictionsallow many competing implementations to interoperate with oneanother. In this setting, monopoly profits for a very limited numberof big players are replaced with a vibrant, innovative market drivenby fierce competition. This results in better solutions and servicesat lower prices.

Cáckhuyến cáo

Dưới ánhsáng của những xem xét ở trên, chúng tôi thúc giục ECkhuyến khích tính tương hợp và sự cạnh tranh trong thịtrường phần mềm châu Âu, hơn là trao cho các công tythống trị đè ở trên một cánh tay đòn bổ sung thêm đểduy trì sự kiểm soát của họ đối với thị trường.Để kết thúc, chúng tôi yêu cầu EC không bổ sung mộtsự phê chuẩn của các chính sách cấp phép của FRAND chocác tiêu chuẩn phần mềm. Thay vào đó, chúng tôi thúcgiục EC duy trì khuyến cáo mà những đặc tả có thểđược xem xét chỉ là mở nếu chúng có thể đượctriển khai và được chia sẻ theo các mô hình cấp phépphần mềm khác nhau, bao gồm cả các PMTD [6] được cấpphép theo GNU GPL.

Chúng tôicũng thúc giục EC đưa vào trong EIF một khuyến cáo mạnhmẽ cho các cơ quan hành chính nhà nước vì lợi ích củachính họ về những ưu thế của phần mềm dựa trên cáctiêu chuẩn mở về sự lựa chọn, sự cạnh tranh, sự tựdo khỏi bị khóa trói và sự truy cập về lâu dài tớicác dữ liệu.

Recommendations

In thelight of the above considerations, we urge the Commission toencourage interoperability and competition in the European softwaremarket, rather than giving incumbent dominant companies an additionallever to maintain their control of the market. To this end, we askthe Commission not to add an endorsement of (F)RAND licensingpolicies for software standards. Instead, we urge the Commission tomaintain the recommendation that specifications can be consideredonly open if they can be implemented and shared under differentsoftware licensing models, including Free Software6licensed under the Gnu GPL.

Wealso urge the Commission to include in the revised EuropeanInteroperability Framework a robust recommendation for public bodiesto avail themselves of the advantages of software based on OpenStandards7in terms of choice, competition, freedom f-rom lock-in and long-termaccess to data.

Các ghichú:

[1]Xem Rishab Aiyer Ghosh, Philipp Schmidt (2006): Vắn tắt vềChính sách của Đại học Liên hiệp Quốc, Số 1/2006:“Chuẩn mở, được xác định phù hợp, có thể có hiệuứng kinh tế độc nhất vô nhị đối với việc cho phépcác nhà độc quyền “bản chất tự nhiên” hình thànhtrong một công nghệ được đưa ra, trong khi đảm bảo sựcạnh tranh trong những nhà cung cấp công nghệ đó”

[2]MPEG được thiết kế đặc biệt để bắt buộc các côngnghệ được cấp bằng sáng chế thậm chí ở những nơimà chúng có thể được thay thế một cách rộng lớn(gây tranh cãi) bởi các lựa chọn thay thế bị cản trởđược cấp bằng sáng chế. Điều này là có thể hìnhdung được vì nhu cầu trích ra càng nhiều lợi nhuậncàng tốt từ việc sử dụng triển khai cài đặt đặcbiệt của chúng đối với các nguyên lý toán học nhấtđịnh nào đó so với nhu cầu tạo ra một nền tảngchung và được tiêu chuẩn hóa cho các mục đích về tínhtương hợp.

Hơnnữa, hầu hết các tiêu chuẩn MPEG đã được thiết lậptrong một thời gian khi mà các mã codecs đã được làm ratrong phần cứng cả vì băng thông sẵn sàng bị hạn chế,lẫn phần cứng chung đã không đủ sức mạnh và

[3]Xem phản ứng của ECIS từ bức thư của BSA vào ngày13/10/2010

[4]Vì một tranh luận về các giải pháp hỗn hợp trong cácgiao thức mạng, xem câu trả lời của FSFE và Đội Sambacho Điều 18.

[5]Xem định nghĩa của PMTD của FSFE.

[6]Như được xác định trong các định nghĩa của FSFE vềmột tiêu chuẩn mở.

Footnotes

  1. See e.g. Rishab Aiyer Ghosh, Philipp Schmidt (2006): United Nations University Policy Brief, Number 1, 2006: "Open standards, properly defined, can have the unique economic effect of allowing "natural" monopolies to form in a given technology, while ensuring full competition among suppliers of that technology." [emphasis added]

  2. MPEG is specifically designed to expressly mandate patented technologies even whe-re they are largely replaceable by (arguably) non patented encumbered al-ternatives. This is conceivably due to the need to extract as much profits as possible f-rom the use of their peculiar implementation of certain mathematical principles than to the need to cre-ate a common and standardized platform for interoperability purposes.

Moreover,most of the MPEG standards were established in a time when codecswere made in hardware both because the available bandwidth waslimited, the generic hardware was not sufficiently powerful and

  1. See ECIS' reaction f-rom October 13, 2010 to the BSA's letter

  2. For a discussion on hybrid solutions in network protocols see FSFE and Samba Team's response to Article 18.

  3. See FSFE's definition of Free Software

  4. As defined in FSFE's definitions of an open standard

Dịch tàiliệu: Lê Trung Nghĩa

letrungnghia.foss@gmail.com

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Về Blog này

Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...

Bài đọc nhiều nhất trong năm
Thăm dò ý kiến

Bạn quan tâm gì nhất ở mã nguồn mở?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập92
  • Máy chủ tìm kiếm5
  • Khách viếng thăm87
  • Hôm nay14,316
  • Tháng hiện tại108,246
  • Tổng lượt truy cập36,166,839
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây