DesktopSummit: Copyright assignments
By Jake Edge, August10, 2011
Theo:http://lwn.net/Articles/454391/
Bài được đưa lênInternet ngày: 10/08/2011
Lờingười dịch: Tại hội nghị thượng đỉnh máy để bànLinux, đã có một nhóm hội thảo giữa một số thànhviên cao cấp của thế giới nguồn mở tranh luận về mộtsố vấn đề còn gây tranh cãi như thỏa thuận cấp bảnquyền (CAA) và thỏa thuận cấp phép bản quyền (CLA) chomã nguồn của những người đóng góp, cụm từ “và saunày” đối với việc cộng các giấy phép nguồn mở,vấn đề về bằng sáng chế phần mềm và vấn đề cáclập trình viên và các công ty đã chết. Còn có nhiều ýkiến khác biệt và chắc chúng ta sẽ còn thấy trong tươnglai những tranh luận tiếp tục.
Các thỏa thuận cấpbản quyền (hoặc cấp phép) cho các dự án là một vấnđề khá tranh cãi, phản ánh những quan điểm khác nhau vềcách mà phần mềm tự do sẽ được định vị tốt nhấtđể phát triển những năm tới. Vài quan điểm đã đượcthể hiển tại “Nhóm về Cấp Bản quyền” đã diễnra hôm 06/08/2011 tại Hộinghị thượng đỉnh cho máy tính để bàn tại Berlin.Nhóm này gồm 2 phe đối lập đối với những thỏa thuậnnhư vậy, Michael Meeks và Bradley Kuhn, cũng như có lẽ ngườiphản đối nổi tiếng nhất, Mark Shuttleworth, với giámđốc điều hành Quỹ GNOME Karen Sandler giữ chủ trì hộithảo nhóm. Cuối cùng, mỗi quan điểm đã được trìnhbày tốt, nhưng, như dự đoán, không phe nào thuyết phụcđược phe kia; mỗi phep có lẽ sẽ bám đuổi theo conđường của mình trong những năm tới.
Sandler đã yêu cầukhán phòng tổng hợp chung - với hơn 400 người tham dự -có bao nhiêu người đã biết về các vấn đề có liênquan tới cấp bản quyền và khoảng một nửa đã giơ taycủa họ. Ít nhiều hơn khoảng một nửa còn lại đã trảlời rằng họ đã có những cảm giác mạnh mẽ về chủđề này, dù theo hướng nào còn chưa rõ sự cần thiếttừ bản thân câu hỏi. Dựa vào cảm giác chung trong thếgiới phần mềm tự do - có lẽ được phản ánh trong tỷlệ 2-1 trong nhóm - điều này có lẽ là hợp lý để giảthiết rằng hầu hết những cảm giác mạnh mẽ là nằmở phe phản đối.
Những khác biệt giữanhững thỏa thuận cấp bản quyền (CAA - CopyrightAssignment Agreements) và những thỏa thuận cấp phép bảnquyền (CLA - Copyright Licensing Agreements) - sự khác biệtgiữa cấp bản quyền cho một tổ chức đối lại vớiviệc trao cho tổ chức đó một giấy phép rộng lớn đểlàm bất kỳ thứ gì tổ chức đó muốn với sự đónggóp - thực sự không nằm trong thảo luận như Sandler đãchỉ ra trong phần giới thiệu. Đối với hầu hết cácphần, những khác biệt giữa 2 phe là không phù hợp đểthảo luận. Bà sau đó đã hỏi mỗi trong số những ngườitrong nhóm tự giới thiệu bản thân họ và đưa ra quanđiểm của họ.
Copyrightassignment (or licensing) agreements for projects is a rathercontentious issue that reflects differing views of how free softwarewill be best-positioned to grow over the coming years. Severalperspectives were on display at the "Panel on CopyrightAssignment" held on August 6 at the DesktopSummit in Berlin. The panel consisted of two opponents of suchagreements, Michael Meeks and Bradley Kuhn, as well as perhaps theirmost outspoken proponent, Mark Shuttleworth, with GNOME Foundationexecutive director Karen Sandler handling the moderation duties. Inthe end, each position was well-represented, but, as might beguessed, neither side convinced the other; each will likely continueto pursue its path over the coming years.
Sandlerasked the assembled room—packed with 400 or more attendees—howmany knew about the issues surrounding copyright assignment andaround half raised their hands. More or less the same half respondedthat they already had strong feelings about the subject, though inwhich direction wasn't necessarily clear f-rom the query itself. Basedon the general feeling in the free software world—perhaps reflectedin the 2-1 ratio on the panel—it is probably reasonable to assumethat most of the strong feelings were in the opposition camp.
Thedifferences between copyright assignment agreements (CAAs) andcopyright licensing agreements (CLAs)—the difference betweenassigning copyright to an organization vs. giving the organization abroad license to do what it wishes with the contribution—was notreally under discussion as Sandler pointed out in the introduction.For the most part, the differences between the two are not germane tothe dispute. She then asked each of the panelists to introducethemselves and to outline their position.
Thiếtlập nền tảng
Cao thủ lâu năm củaLibreOffice và GNOME Michael Meeks lên trước với các phảnđối của ông mà ông nói tới theo 3 đầu đề riêng rẽ:tính có thể mở rộng theo phạm vi, xung đột và quyềnsở hữu. Những thứ này tạo thành một cụm từ vớinhững ký tự đầu mà cũng tóm tắt được cảm giác củaông, ông nói (ám chỉ SCO). Meeks từng một thời là mộtngười bảo vệ của những thỏa thuận về bản quyền,và sau đó đã thay đổi vì ông đã “thấy nó đi hoàntoàn sai”.
Vấn đề về tính cóthể mở rộng được về phạm vi là trao các quyền chomã nguồn của bạn cho một công ty dẫn chúng tới việccó một sự độc quyền. Công ty đó thường có một giấyphép ràng buộc ra bên ngoài là copyleft mạnh (như GPL) đểdẫn dắt bất kỳ việc cấp phép SHĐQ nào đối vớicông ty. Điều này có thể dẫn tới những xung đột, ôngnói, như “các cao thủ chống lại các vụ kiện” hoặccộng đồng chống lại công ty. Nếu những người đónggóp không cảm thấy thích việc họ sở hữu một phầncủa mã nguồn, họ “cảm thấy rất khác về dự án”,ông nói. Họ không cần cảm thấy bất kỳ lòng trungthành nào đối với công ty, nhưng mất quyền sở hữu cóthể làm cho họ cảm thấy họ thực sự không phải làmột phần của dự án. Điều đó có thể làm cho cáccộng đồng ít thú vị và mạnh mẽ hơn.
Nhà sáng lậpCanonical và Ubuntu Mark Shuttleworth nói rằng ông nghĩ vềbản thân ông như một người làm vườn và “nhìn xemcác hệ sinh thái phát triển và thịnh vượng như thếnào”. Như một người kinh doanh, ông muốn sẽ là mộtphần của một hệ sinh thái thịnh vượng cho máy tính đểbàn Linux, ông nói. Thậm chí đối mặt với sự áp đảocủa Microsoft, iOS và Android đã và đang xây dựng đượccác hệ sinh thái thịnh vượng và ông muốn thấy máytính để bàn Linux làm được y hệt.
“Sự tự do khôngphải là ở trên bàn trong các cuộc thảo luận”,Shuttleworth nói. Trong khi mã nguồn được đóng góp theomột trong những thỏa thuận có thể thành SHĐQ, thì bảnthân mã nguồn lại không bị rủi ro khi nó sẽ luôn sẵnsàng theo giấy phép tự do mà nó đã được phân phối.Hệ sinh thái Linux cần nhiều công ty nhỏ và mới khởinghiệp tham gia vào, nhưng điều đó đang không xảy ra,ông nói, khi mà họ đang phát triển cho Android, iOS, hoặccác công ty web khác - và họ sẽ không ở trong Hội nghịthượng đỉnh Máy tính để bàn.
Settingthe stage
LibreOfficeand longtime GNOME hacker Michael Meeks went first with hisobjections that he said came under three separate headings:scalability, conflict, and ownership. Those make a nice acronym thatalso summarizes his feelings, he said. Meeks was at one time anadvocate of copyright agreements, and then changed his mind becausehe has "seen it go badly wrong".
Thescalability problem is that giving the rights to your code to acompany leads to them having a monopoly. The company typically has astrong copyleft outbound license (e.g. GPL) to drive any proprietarylicensing to the company. This can lead to conflicts, he said, like"hackers vs. suits" or the community vs. the company. Ifcontributors don't feel like they own part of the code, they "feelvery differently about the project", he said. They don'tnecessarily feel any allegiance to the company, but the loss ofownership can make them feel like they aren't really part of theproject either. That can cause less vibrant and excited communities.
Canonicaland Ubuntu founder Mark Shuttleworth said that he thinks of himselfas a gardener and "looks at how ecosystems grow and thrive".As a businessman, he wants to be part of a thriving ecosystem andbelieves that others in the room share that view. Today, we don'thave a thriving ecosystem for the Linux desktop, he said. Even in theface of Microsoft domination, iOS and Android have built thrivingecosystems and he would like to see the Linux desktop do the same.
"Freedomis not on the table in these discussions", Shuttleworth said.While code that is contributed under one of these agreements could goproprietary, the code itself is not at risk as it will always beavailable under the free license that it was distributed under. TheLinux ecosystem needs lots of smaller companies and startups to beinvolved, but that isn't happening, he said, as they are developingfor Android, iOS, or the web—and are not at the Desktop Summit.
Có vài cách thức đểcác công ty tham gia vào một dự án phần mềm tự do,Shuttleworth nói. Một cách là để một “dự án với cácmối quan hệ” giống như Nhân Linux, nơi mà các công typhải tham gia trong sự phát triển của nó, dù họ “ghétnó” và muốn rằng họ có thể được yêu cầu để làmthế, ông nói. Cách khác là có một “nền tảng chia sẻcốt lõi” với một giấy phép cho phép (permissive) chophép các công ty bổ sung “các mở rộng nước sốt bímật”, và đã chỉ tới cộng đồng PostgreSQL như mộtví dụ. Sự tổng hợp là một con đường khác - đượccác phát tán Linux sử dụng - lấy công việc của nhiềucộng đồng, đóng gói chúng lại, và thực hiện nhữnglời hứa về chất lượng hoặc sở hữu trí tuệ (IP) vèviệc đánh đống để lôi cuốn các khách hàng. Cuốicùng, ông đã nhắc tới mô hình nhà cung cấp duy nhất rõràng nói rằng có một tổ chức đứng đằng sau dự án,giống như Mozilla. Có những nỗi sợ hãi về mô hình đó,ông nói, nhưng cách thức mà những nỗi sợ hãi đó đượclàm việc là trong các thị trường chín muồi là thôngqua sự cạnh tranh.
Brandley Kuhn của tổchức Bảo vệ Sự tự do cho Phần mềm đã không đồngtình với Shuttleworth: “sự tự do của phần mềm luônnằm trên bàn”, ông nói, và nó luôn nằm trong mối đedọa. Kuhn từng là giám đốc điều hành của Quỹ Phầnmềm Tự do (FSF) và hiện phục vụ trong ban lãnh đạo củanó. Ông đã lưu ý rằng FSF đặt nhiều nỗ lực vào việcđưa cùng nhau ra được một khung pháp lý nơi mà các dựán có thể làm việc được với các công ty một cáchbình đẳng. Giấy phép được một cộng đồng sử dụngtheo một số cách thức chính là thể trạng của cộngđồng đó, như một thỏa thuận bản quyền có thể thayđổi thể trạng đó theo những cách thức đơn phương từmột phía. Copyleft được thiết kế để đảm bảo chắcchắn rằng những dẫn xuất của mã nguồn luôn sẵn sàngtheo những điều khoản mà mã nguồn gốc ban đầu đãđược đưa ra.
Kuhn đã lưu ý rằngmột số người có lẽ hơi ngạc nhiên trong quan điểmcủa ông, biết rằng FSF đòi hởi chấp bản quyền chocác dự án của mình. Ông đã và đang bảo vệ việc tạora sự lựa chọn đó hơn là bắt buộc, nhưng cho tới nàycòn chưa thuyết phục được ban lãnh đạo tiến hànhthay đổi đó. Nhưng có “một số lượng khổng lồ cácgiá trị” trong việc cấp các bản quyền cho một tổchức mà mã nguồn và các dẫn xuất của nó sẽ luôn sẵnsàng theo một giấy phép tự do, nhưng trừ phi một côngty làm cho những thứ đó thành dạng y hệt những hứahẹn, thì sẽ không có sự đảm bảo như vậy nữa. Chotới nay những yêu cầu của ông tới một số công tythực hiện các lời hứa dạng đó đã và đang gặp phảimột sự thay đổi trong chủ đề này, ông nói.
Thereare several ways to get companies to participate in a free softwareproject, Shuttleworth said. One way is to a "nexus project"like the Linux Kernel, whe-re companies have to participate in itsdevelopment, though they "hate it" and wish that theyweren't required to do so, he said. Another way is to have a "coreshared platform" with a permissive license that allows companiesto add "secret sauce extensions", and pointed to thePostgreSQL community as an example. Aggregation is another path—usedby Linux distributions—to take the work of multiple communities,package them up, and make quality or IP promises about the bundle toattract customers. Lastly, he mentioned the single vendor model whichclearly states that there is an organization behind the project, likeMozilla. There are fears about that model, he said, but the way thosefears are dealt with in mature markets is via competition.
BradleyKuhn of the Software Freedom Conservancy disagreed with Shuttleworth:"software freedom is always on the table", he said, and itis always under threat. Kuhn was formerly the executive director ofthe Free Software Foundation (FSF) and currently serves on its board.He noted that the FSF put a lot of effort into putting together alegal framework whe-re projects can work with companies on equalfooting. The license that is used by a community is in some ways theconstitution of that community, but a copyright agreement can changethat constitution in unilateral ways. Copyleft is designed to makesure that derivatives of the code are always available under theterms which the original code was released under.
Kuhnnoted that some might be a bit surprised at his opposition, giventhat the FSF requires copyright assignment for its projects. He hasbeen advocating making that optional rather than mandatory, but hasso far been unable to convince the board to make that change. Butthere is "a tremendous amount of value" in assigningcopyrights to an organization that is "completely aligned withfree software" such as the FSF. The FSF has made promises thatthe code and its derivatives will always be available under a freelicense, but unless a company makes those same kind of promises,there is no such guarantee. So far his requests to some companies tomake promises of that sort have been met with a change in thesubject, he said.
Độcquyền
Meeks đã hỏiShuttleworth liệu ông có đồng ý rằng việc ký một thỏathuận bản quyền với một công ty có trao cho công ty đómột sự độc quyền hay không, và Shuttleworth nói rằngông ta đã không đồng ý. Nếu mã nguồn là sẵn sàngtheo GPL, thì sẽ không có độc quyền, ông nói, dù côngty với đa số bản quyền là theo “quan điểm về lợiích”. Kuhn đã viện lý rằng Shuttleworth đã đang thay đổichủ đề, vì độc quyền là về khả năng cấp phép chomã nguồn theo các điều khoản SHĐQ. Đó là một sự giámsát “nhàm chán và rõ ràng”, Shuttleworth nói, đồng ýrằng nó trao dạng sức mạnh độc quyền đó cho ngườinắm giữ bản quyền.
Meeks nói rằng lý docó 2 dự án môi trường đồ họa cho máy tính để bànLinux chính xuất phát từ vấn đề cấp phép SHĐQ, thamchiếu tới việc cấp phép Qt không tự do mà đã tồn tạivào lúc hình thành dự án GNOME. Ông tin tưởng rằng cócả 2 thứ đó là một “sự lãng phí đáng buồn”. Mộtphần của vấn đề đối với Linux là nhiều “sự trùnglặp vô nghĩa”, ông nói. Trả lời cho một câu hỏi từShuttleworth, Meeks nói rằng có cả các trình duyệt Firefoxvà Chrome từng là sự trùng lặp vô nghĩa theo quan điểmcủa ông. “Tôi thấy không có gì sai với Firefox”, ôngnói.
Kýcác yêu cầu và “sự xích mích”
Shuttleworth đã chỉra rằng các thỏa thuận bản quyền “có thể gây ranhững vấn đề và chúng ta nên cẩn thận đề cập tớichúng”. Một trong những vấn đề là “xích mích” đượcgây ra bằng việc phải ký một thỏa thuận hoàn toàn,lưu ý rằng một trong những sức mạnh lớn của GPL làviệc bạn không phải ký nó. Nhưng, trong các trường hợpnơi mà một thỏa thuận là cần thiết, thì chúng ta cóthể giảm xích mích, như những gì dự án Harmony đãthiết lập để làm, ông nói. Bằng việc giảm số lượngcác thỏa thuận, các công ty như Canonical có thể khôngphải nhìn vào 300 thỏa thuận khác nhau mỗi năm, ông nói.
Kuhn nói rằng mụctiêu của ông có thể là vì Canonical và những ngườikhác không bao giờ ký một thỏa thuận như vậy hoàntoàn. Nếu giấy phép theo đó mã nguồn được đóng góplà y hệt như giấy phép theo đó dự án được tung ra(nghĩa là “bên trong = bên ngoài”), thì có thể sẽkhông cần một thỏa thuận. GPL được thiết kế đểđiều khiển tình trạng đó một cách phù hợp, Kuhn nói.Ông cũng đã lưu ý rằng ông đã có quan tâm về nhữngthỏa thuận của Harmony vì chúng có thể dẫn tới dạngbối rối y hệt mà các giấy phép Creative Commons (CC) đãlàm. Bằng việc có nhiều dngj bối rối khác nhau các thỏathuận theo cùng tên của mức cao nhất (như Harmony hoặcCC), có thể có sự bôi sroois như những gì là có nghĩa,ông nói. Mất thời gian để tách biệt các giấy phép CChướng tự do từ những lựa chọn không tự do và ông lorằng một tình huống tương tự có thể nảy sinh vớiHarmony.
Monopolies
Meeksasked Shuttleworth if he agreed that signing a copyright agreementwith a company gives that company a monopoly, and Shuttleworth saidthat he didn't. If the code is available under the GPL, there is nomonopoly, he said, though the company with a majority of thecopyright is in a "beneficial position". Kuhn argued thatShuttleworth was changing the subject, because the monopoly is on theability to license the code under proprietary terms. That is a "triteand obvious" observation, Shuttleworth said, in agreeing that itdoes give that kind of monopoly power to the copyright holder.
Meekssaid that the reason that there are two major Linux desktop projectsstems f-rom the proprietary licensing problem, referring to thenon-free Qt licensing that existed at the time of the GNOME project'sfounding. He believes that having both of those is a "sadwaste". Part of the problem for Linux is lots of "pointlessduplication", he said. In response to a question f-romShuttleworth, Meeks said that having both the Firefox and Chromebrowsers was pointless duplication in his view. "I seenothing wrong with Firefox", he said.
Signingrequirements and "friction"
Shuttleworthpointed out that copyright agreements "can cause problems and weshould be careful to address them". One of those problems is the"friction" caused by having to sign an agreement at all,noting that one of the great strengths of the GPL is that you don'thave to sign it. But, in cases whe-re an agreement is needed, we canreduce the friction, which is what Project Harmony was set up to do,he said. By reducing the number of differing agreements, companieslike Canonical would not have to look at up to 300 different onesevery year, he said.
Kuhnsaid that his goal would be for Canonical and others to never have tosign such an agreement at all. If the license under which the code iscontributed is the same as that under which the project is released(i.e. "inbound == outbound"), there would be no need for anagreement. The GPL is designed to handle that situation properly,Kuhn said. He also noted that he was concerned about the Harmonyagreements because they could lead to the same kind of confusion thatthe Creative Commons (CC) licenses did. By having multiple differentkinds of agreements under the same top-level name (e.g. Harmony orCC), there can be confusion as to what is meant, he said. It tooktime to separate the freedom-oriented CC licenses f-rom the non-freechoices, and he worries that a similar situation may arise forHarmony.
Hoặcsau này
Sandler đã hỏi nhữngngười trng nhóm về việc sử dụng cụm từ “hoặc saunày” (như GPLv2 hoặc sau này, nghĩa là “cộng” cácgiấy phép) khi việc cấp phép cho mã nguồn và những gìtriển khai diễn ra. Kuhn đã lưu ý rằng nhân nổi tiếngLinux không sử dụng “hoặc sau này”. Ông nói rằng làmthế là đặt sự tin tưởng vào tổ chức khác, và rằngnếu bạn không tin tổ chức khác đó “một cách sâusắc”, thì đừng ký một thỏa thuận bản quyền vớihọ hoặc bổ sung một cụm từ “hoặc sau đó” vào mộtgiấy phép theo sự kiểm soát của họ.
Nhưng Shuttleworth longại rằng việc sử dụng cấp phép “bên trong = bênngoài” là “việc tin tưởng rằng thế giới sẽ khôngthay đổi”. Trong khi việc cấp phép sẽ không thay đổitrong một đêm, thì nó cuối cùng sẽ đề cập tới nhữngthay đổi trong bức tranh pháp lý. Chỉ như có sự cầnthiết phải có một GPLv3 để giải quyết những khiếmkhuyết trong v2, rồi sẽ có GPLv4 và GPLv5 một ngày nàođó, ông nói. Ric-hard Stallman sẽ không đâu đó mãi mãi,nên bạn đang đặt niềm tin của bạn vào cơ quan củaFSF, ông nói. Có thể sẽ là tốt hơn để đặt niềm tinđó vào bản thân dự án và cho phép nó quyết định liệubất kỳ thay đổi nào về giấy phép sẽ cần thiết đira ngoài đường.
Về cơ bản việckhông đồng tình với cả 2, Meeks nghĩ rằng “hoặc saunày” là “sống còn”. Ông nói rằng ông tin tưởng FSFvà nghĩ rằng những người khác cũng nên thế, nhưng hơnnữa, “FSF là ít rủi ro hơn so với việc giết chết dựán của bạn thông qua sự quan liêu”. Một lý do mà cáccông ty muốn có khả năng có được các giấy phép SHĐQđối với phần mềm tự do sao cho “họ có thể có đượcsự bảo vệ các bằng sáng chế mà không sẵn sàng đốivới chúng ta”, ông nói.
Orlater
Sandlerasked the panelists about using the "or later" clause (e.g.GPLv2 or later, aka "plus" licenses) when licensing codeand what the implications were. Kuhn noted that the Linux kernelfamously does not use "or later". He said that doingso is putting trust in another organization, and that if you don'ttrust that organization "deeply", don't sign a copyrightagreement with them or add an "or later" clause to alicense that is under their control.
ButShuttleworth is concerned that using "inbound == outbound"licensing is "believing that the world won't change". Whilelicensing won't change overnight, it will eventually to addresschanges in the legal landscape. Just as there needed to be a GPLv3 toaddress shortcomings in v2, there will be a GPLv4 and a GPLv5 someday, he said. Ric-hard Stallman will not be around forever, so you areplacing your trust in the institution of the FSF, he said. It wouldbe better to place that trust in the project itself and allow it todecide if any license changes are needed down the road.
Essentiallydisagreeing with both, Meeks thinks that "or later" is"vital". He says that he trusts the FSF and thinks thatothers should too, but beyond that, "the FSF is less of a riskthan killing your project through bureaucracy". One reason thatcompanies want to be able to get proprietary licenses to freesoftware is so that "they can get patent protection that isn'tavailable to us", he said.
Cáclo ngại về bằng sáng chế
Cũng có câu hỏi vềcác giấy phép bằng sáng chế, Meeks nói Những thỏa thuậncủa Harmony chỉ định các bằng sáng chế cùng với nhữngquyền khác và nếu mã nguồn được tung ra theo một giấyphép cho phép (permissive) (như BSD), thì các quyền về bằngsáng chế mà công ty tích lũy sẽ không nhất thiết chảyngược lại tới những người mà nhận mã nguồn. Điềunày có thể tốt lành để nhờ cộng đồng ngồi chungthuyền với sự tôn trọng các bằng sáng chế như nhữngcông ty khác mà cấp phép cho mã nguồn, nhưng điều đócó thể sẽ không đúng nếu những thỏa thuận củaHarmony sẽ được sử dụng, ông nói. “Harmony làm cho nóphức tạp hơn, chứ không phải đơn giản hơn”, ôngnói.
Patentconcerns
Thereis also the question of patent licenses, Meeks said. The Harmonyagreements assign patent rights along with the other rights and ifthe code is released under a permissive license (e.g. BSD), thepatent rights accumulated by the company don't necessarily flow backto those who receive the code. It would be nice to have the communitybe in the same boat with respect to patents as the other companiesthat license the code, but that may not be true if the Harmonyagreements are used, he said. "Harmony makes it morecomplicated, not simpler", he said.
Các bằng sáng chếtừng như một phần “được tranh cãi sôi nổi” củaquá trình hình thành nên các thỏa thuận của Harmony,Shuttleworth nói. Ông từng là một “người quan sát tiệmcận” của qui trình này, ông nói, nhưng đã thấy rằngvấn đề bằng sáng chế đã được thảo luận dài dài.Vấn đề là bạn phải cẩn thận những gì bạn hỏi chobên trong (inbound) đối với các bằng sáng chế nếu bạnmuốn có khả năng sử dụng một loạt dạng các giấyphép bên ngoài (outbound), ông nói. Các bằng sáng chế là“một vấn đề rất nghiêm trọng”, nhưng những thỏathuận của Harmony chỉ trao khả năng để chuyển mã nguồnvới một giấy phép cho bất kỳ bằng sáng chế nào đượcgiữ bởi người đóng góp mà đọc được trong sự đónggóp.
GPLv3 đã được thiếtkế để đảm bảo rằng mỗi người đang có các quyềnnhư nhau về bằng sáng chế, Kuhn nói. Một phần lý do chosự cập nhật từng là vì GPLv2 đã không tốt theo khíacạnh này, ông nói.
Nhữnglập trình viên và các công ty đã chết
Vấn đề “lậptrình viên đã chết” là một nơi mà một số dạng thỏathuận bản quyền có thể giúp, Sandler nói. Nếu có mộtnhu cầu để cấp phép lại cho một dự án nơi mà mộthoặc nhiều người nắm giữ bản quyền hơn là chết rồihoặc nếu khác đi không thể với tới họ được, điềugì có thể làm nếu không có thỏa thuận, bà hỏi. Meeksnói rằng “lý lẽ về công ty chết cũng thú vị”. Cónhiều lập trình viên hơn là các công ty, ông nói. “Cộng”các giấy phép có thể giúp ở đó, ông nói. Meeks cũngnói rằng ông từng hạnh phúc để nghe rằng Canonical từngsử dụng công các giấy phép, nhưng Shuttleworth đã nhanhchóng chỉ ra rằng không phải thế. Giấy phép ưu tiênchọn của Canonical là GPLv3, dù hãng sẽ đóng góp vào cácdự án với cộng các giấy phép, ông nói.
Chúng ta đã thấy cácvấn đề với các công ty chết mà đã gây ra cho nhữngcông ty khác tới “nhặt xác”, Kuhn nói. Đôi khi mộtphần của những cái xác đó là những dự án phần mềmtự do nơi mà công ty mới sau đó thay đổi tất cả cácchính sách sẽ đi tiếp, ông nói. Tình huốn các lậptrình viên bị chết là rất khác khi có những quyết địnhrất cá nhân mà các lập trình viên có thể muốn thựchiện đối với mã nguồn của họ sau khi họ mất. Điềuđó có thể bao gồm chỉ định ai đó tiến hành cácquyết định đó - như Kuhn đã làm - sau khi họ mấtShuttleworth đã nghi ngờ về việc dựa vào những ngườicó những ông việc của họ trước khi họ mất.
Thảo luận nhóm đãkhép lại với một tranh luận ngắn về sự cạnh tranh,với Shuttleworth nói rằng thế giới phần mềm tự do sợcạnh tranh và cố gắng ngăn cản bất kỳ ai có đượcmột ưu thế cạnh tranh.
Meeks tin tưởng rằngđã có đủ sự cạnh tranh từ các công ty phần mềmSHĐQ, nên việc bổ sung thêm nó vào cộng đồng phần mềmtự do là không cần thiết. Quan điểm của Kuhn là “hệsinh thái đã làm việc cho tới này là một hệ sinh tháicopyleft” mà không có bất kỳ dạng thỏa thuận bảnquyền nào.
Trong khi là thú vị,hội thảo nhóm đã đưa ra quá ngắn về thời gian, nêncảm thấy rất có áp lực. Hơn nữa, đã không có khảnăng cho khán phòng đưa ra các câu hỏi, thứ gì đó màKuhn đã lưu ý là một trong những phần quan trọng nhấtcủa bất kỳ dạng thảo luận nhóm nào. Sự cần bằngtrong nhóm cũng dường như bị méo mó một chút, dù, nhưđược lưu ý ở trên, điều đó có thể phản ánh mộtcách thô ráp ý kiến của cộng đồng về vấn đề này.Một thành viên trung lập thứ 3 của nhóm, thay thế cho cảMeeks và Kuhn, có thể là tốt hơn, dù Sandler đã không làmcông việc dễ chịu trong việc chỉ đạo mọi thứ nhưmột người điều tiết trung lập. Theo một số cách thứcnhư bản thân chủ đề này, nhóm hoàn toàn là thú vị,nhưng không thỏa mãn lắm. Chắc chắn không phải lànhững câu trả lời dễ dàng, và có lẽ chúng ta sẽ vậtlộn với nó trong nhiều năm tới nữa.
Patentswere "debated vigorously" as part of the process of comingup with the Harmony agreements, Shuttleworth said. He was a"tangential observer" of the process, he said, but did seethat the patent issue was discussed at length. The problem is thatyou have to be careful what you ask for inbound with respect topatents if you want to be able to use various kinds of outboundlicenses, he said. Patents are "a very serious problem",but the Harmony agreements just give the ability to ship the codewith a license to any patents held by the contributor that read onthe contribution.
TheGPLv3 was designed to ensure that everyone is getting the same patentrights, Kuhn said. Part of the reason for the up-date was because theGPLv2 was not as good in that regard, he said.
Deaddevelopers and companies
Theproblem of the "dead developer" is one place whe-re somekind of copyright agreement can help, Sandler said. If there is aneed to relicense a project whe-re one or more copyright holders isdead or otherwise unreachable, what can be done if there is noagreement, she asked. Meeks said that the "dead company argumentis also interesting". There are more developers than companies,so maybe they die more often, but we have already seen problemscoming f-rom dead companies, he said. "Plus" licenses canhelp there, he said. Meeks also said that he was happy to hear thatCanonical was using plus licenses, but Shuttleworth was quick topoint out that was not the case. Canonical's preferred license isGPLv3, though it will contribute to projects with plus licenses, hesaid.
Wehave seen problems with dead companies that have resulted in othercompanies coming in to "pick at the carcass", Kuhn said.Sometimes part of that carcass is free software projects whe-re thenew company then changes all of the policies going forward, he said.The dead developer situation is very different as there are verypersonal decisions that developers may want to make regarding theircode after they are gone. That could include appointing someone tomake those decisions—as Kuhn has done—after they pass.Shuttleworth was skeptical about relying on people to get theiraffairs in order before they go.
Thepanel wrapped up with a short discussion of competition, withShuttleworth saying that the free software world fears competitionand tries to prevent anyone f-rom getting a competitive advantage.Meeks believes that there is already enough competition f-rom theproprietary software companies, so adding it into the free softwarecommunity is not needed. Kuhn's position is that the "ecosystemthat has worked so far is a copyleft ecosystem" without any kindof copyright agreement.
Whileinteresting, the panel was given too short of a slot, so that it feltvery compressed. In addition, there was no opportunity for theaudience to ask questions, which is something that Kuhn noted as oneof the most important parts of any kind of panel discussion. Thebalance on the panel also seemed a bit skewed, though, as notedabove, that may roughly reflect the community's opinion on thematter. A neutral third member of the panel, replacing either Meeksor Kuhn, might have been better, though Sandler did a nice job ofsteering things as a neutral moderator. In some ways like the topicitself, the panel was quite interesting, but vaguely unsatisfying.There are certainly no easy answers, and we will likely struggle withit for many years to come.
Dịch tài liệu: LêTrung Nghĩa
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Blog này được chuyển đổi từ http://blog.yahoo.com/letrungnghia trên Yahoo Blog sang sử dụng NukeViet sau khi Yahoo Blog đóng cửa tại Việt Nam ngày 17/01/2013.Kể từ ngày 07/02/2013, thông tin trên Blog được cập nhật tiếp tục trở lại với sự hỗ trợ kỹ thuật và đặt chỗ hosting của nhóm phát triển...